Thứ Năm, 21 tháng 12, 2023

Danh mục toàn bộ Văn (bán nguyệt san và giai phẩm) từ số đầu tiên (1/1/1964) đến số cuối cùng (26/3/1975)

 BỘ SƯU TẬP TRỌN VẸN 12 NĂM TẠP CHÍ VĂN TỪ SỐ RA MẮT CHO ĐẾN SỐ CUỐI CÙNG (1/1/1964 - 26/3/1975)

⚜️
Đúng một lục thập hoa giáp tính từ số ra mắt 1/1/1964 & đúng hai thập kỷ (một thời gian ngắn không phải là ngắn mà nói dài không phải…là dài để có được “công trình” này) từ ngày tôi sưu tầm những số đầu tiên tạp chí (&giai phẩm) Văn, để có được đầy đủ 210 số bán nguyệt san Văn và tiếp theo sau là các số Giai Phẩm (*). Có những hiện vật khó/ không thể quy đổi thành tiền, vì nhiều khi có tiền cũng không kiếm được. Nào có thể mua được định mệnh, mua được những hạnh ngộ hãn hữu, những tình cờ…được sắp đặt, những gom góp chắp vá qua tơi bời của điêu linh, của tàn nhẫn thời gian…mà mỗi tờ báo đã như là một sinh mệnh.
“Đầy đủ mọi lập trường, khuynh hữu có, lừng khừng có, khuynh tả có; đầy đủ mọi thế hệ, trẻ có, già có; đầy đủ mọi tài năng, nghiệp dư có, chuyên nghiệp có; đầy đủ mọi chiều hướng, cổ điển, lãng mạn, tả chơn, siêu thực, hiện thực, hiện sinh, hiện đại và nhiều thứ khác nữa. Chính nhờ mô hình làm văn như vậy, xin nhắc: độc lập, cởi mở, không qui lụy bất cứ định chế hay trường phái nào, mà tạp chí Văn và đặc san Tân văn đáp ứng được nhu cầu khẩn thiết của độc giả lẫn tác giả bấy giờ. Đúng như họ mong muốn, đòi có một chỗ để viết và để đọc nhiều loại tác phẩm chiều hướng khác nhau, phong cách khác nhau, giọng nam giọng trung giọng bắc song song với nhau - họ đã quá ngấy thứ văn chương lụt đầy hai nửa đất nước thời ấy, thứ văn chương độc thoại một chiều và đúng lập trường trong lời ăn tiếng nói, vừa thô thiển vừa nhạt nhẽo.” - xin dẫn lại một đoạn ngắn dịch giả Trần Thiện Đạo tóm tắt về các “khuynh hướng” trên Văn. Quả thật vậy, lần giở từng số một ta có thể điểm qua:
📇
Những số rất “đương thời”, tiệm cận với văn chương thế giới khi giới thiệu rất nhanh chóng & gần như cùng lúc những nhà văn & tác phẩm thời danh lúc bấy giờ: Albert Camus, Stefan Zweig, Alberto Movaria, Guy de Maupassant, André Malraux,Jacques Prevert, William Faulkner, Kafka, Francoise Sagan, Ernest Hemingway, Saint-Exupéry, Graham Greene, Hermann Hesse, Simone de Beauvoir, Marcel Proust,André Gide, Léon Tolstoi, Kawabata, Jean Paul Satre…, những số trang trọng tưởng niệm những tài danh của văn chương Việt: Nhất Linh, Lê Văn Trương, Triều Sơn, Tản Đà, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Phụng, Hàn Mạc Tử, Hồ Biểu Chánh, Đinh Hùng, Bích Khê, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Phạm Duy Tốn, Thạch Lam, Tchya Đái Đức Tuấn, Y Uyên, Doãn Dân,…; những số “tưởng mộ” các văn nhân: Bùi Giáng, Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền, Võ Hồng, Hồ Dzếnh, Quách Tấn…; những số Văn về “văn chương nữ giới” tuyển tập một “hiện tượng” đặc sắc của văn chương trước 1975; những số Giáng Sinh, Xuân & “đầu xuân lộc mới” mang một dư vị & cảm hoài khó tả của một miền Nam & Việt Nam đẹp-buồn: tập hợp những tên tuổi cự phách của các tác giả thời danh, quy tụ các tên tuổi 3 miền: từ “lão thành” Vũ Hoàng Chương, Ðông Hồ, Vũ Bằng, Lê văn Trương cho đến “thời danh” và “ăn khách” như: Nguyễn Mạnh Côn, Võ Phiến, Linh Mục Thanh Lãng, giáo sư Nguyễn Văn Trung, Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Thảo Trường, Vĩnh Lộc, Văn Quang, Phan Du, Võ Hồng, Ðặng Tiến, Trần Thiện Ðạo, Tô Thùy Yên, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Minh Hoàng, Vũ Ðình Lưu, Nguyễn Ðình Toàn, Tuấn Huy, Viên Linh, Ðỗ Quí Toàn, Phạm Công Thiện, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Nam, Phan Lạc Phúc, Phan Lạc Tiếp Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Mộng Giác, Tạ Ký, Trần Dzạ Từ… về các nhà văn nữ, có Túy Hồng, Nhã Ca, Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ…những số Xuân Đặc Biệt chính là một chứng từ khi muốn nói đến cái đẹp của văn chương & cũng là một thế giới thu nhỏ khi ai muốn đọc hoặc tìm hiểu về “văn chương miền Nam”, ở đó lấp lánh chút niềm bình an qua từng con chữ khi những hoài vọng của một tương lai tươi sáng hơn, yên bình hơn dù rằng qua ngọt ngào của “nắng thi ca, mưa tiểu thuyết” hay qua những những tiếng kêu trầm thống của những cây bút tràn đầy sinh lực “ngoài vòng đai” trong cơm trầm luân của chiến tranh…qua những số Xuân rất “nặng ký” (cả nghĩa đen & nghĩa bóng); các Tuyển Tập với tên của một tác phẩm được lấy ra làm tên số báo trên trang bìa rất thơ như một làn gió làm dịu nhẹ bớt cái rát buốt của chiến tranh, cái căng thẳng của thời cuộc lúc bấy giờ (hầu hết đều theo tiêu chí uỷ lạo cho các cây bút trẻ, những gương mặt không-thời-danh, những cây bút dấn thân trong cuộc chiến….) có thể kể đến như: Mây mùa thu, Lệ đá đêm sâu, Mưa khóc tan mùa, Lối về chợ Trúc, Nói với mùa thu, Phiến đá chưa mòn, Sầu xưa chín rụng, Mưa chưa dứt hạt, Bóng tối vây quanh, Khi mùa mưa tới, Trên ngọn sầu đông, Mịt mờ thức mây, Tiếng hát lên trời, Trong nỗi buồn vàng, Mảnh vụn trong hồn người, Mùa đông trong trí nhớ… ; mạnh mẽ và trực diện hơn cho cuộc chiến như: Viết Trong Khói Lửa, Văn chương trong thời bình, Mở mắt nhìn quê hương, Trên vai Việt Nam…; những số đặc biệt về Thơ về Hội Họa về Sân Khấu, những số ghi thẳng chủ đề “cây bút trẻ” ân cần giới thiệu & khai phá những giọng văn rất mới và chính là những khởi đầu cho những tên tuổi và đều có những dấu ấn riêng sau này…như thư ngỏ mở đầu số 11 “Những cây bút trẻ đang lên”: “…Văn nghiệp của những cây bút góp mặt nơi đây mặc dù còn đang được xây đắp bằng rất nhiều công khó, cũng đã có được ít nhiều sắc thái riêng biệt khả dĩ xác nhận sự hiện diện của họ trên văn đàn. Họ đang cố vươn tới, đi lên. Nội sự cố gắng đó thiết tưởng đã đủ để bạn đọc tiếp nhận tác phẩm của họ bằng rất nhiều thiện cảm” (có thể kể đến: Trần Hoài Thư, Hà Thúc Sinh, Hồ Minh Dũng, Trần Dzạ Lữ, Nguyễn Lương Vỵ, Mường Mán, Ngụy Ngữ, Cao Thoại Châu, Lâm Chương, Huy Tưởng, Đynh Trầm Ca, Phan Nhự Thức, Hà Nguyên Thạch, Lâm Hảo Dũng, Vũ Hữu Định, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Thị Minh Ngọc,…)
🖼️
Về hình thức, các bìa Văn còn là một tuyển tập những bức tranh rất u hoài, rất “văn chương”, rất “trữ tình”, những vóc dáng “em gầy như liễu trong thơ cổ”, những gương mặt đẹp-đau-thương, những đường nét khêu gợi trí tưởng, những mảng màu siêu thực …trên bìa của Văn khiến tạp chí này - ngoài giá trị nội dung không thể phủ nhận - còn bật lên với những giá trị thẩm mỹ và có thể được xem là một trong số ít những tạp chí văn chương được chăm chút nhất về mặt “mỹ thuật” của làng báo chí “ngàn hoa đua nở” trước 1975. Những họa phẩm ấy đến từ các họa sĩ: Văn Thanh (cũng là người vẽ logo), Ngọc Dũng, Rừng, Thái Tuấn, Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Lê Vĩnh Ngọc, Hồ Đắc Ngọc, các bức chân dung văn nghệ sĩ “kinh điển” & hình màu chụp bởi Trần Cao Lĩnh…
💫
Tòa soạn Văn ở 38 Phạm Ngũ Lão, cũng là nhà in của ông Nguyễn Đình Vượng. Ông Vượng đứng tên chủ nhiệm Văn với Trần Phong Giao lo phần bài vở. Trần Phong Giao, trước khi đảm nhận tờ Văn làm việc ở tạp chí Tin Sách của Hội Văn Bút do linh mục Thanh Lãng làm Chủ tịch. Ngoài công việc làm báo, Trần Phong Giao còn sáng tác và dịch sách.
Văn như ngay từ số đầu đã đề ra chủ trương: dành cho lớp độc giả hiếu học ham đọc, ưa suy nghĩ.
Tờ Văn, Trần Phong Giao đảm nhận từ số 1 năm 1964 đến cuối năm 1971 thì ngưng. Ông rời khỏi tòa soạn với một lá thư gởi bạn đọc cùng ngỏ lời chia tay với những người viết trẻ. Tiếp tục công việc cho Văn, ông Nguyễn Ðình Vượng mời hai nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng và Mai Thảo. Hơn một năm giữ vai trò phụ trách bài vở, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vì bận công việc dạy học lại thôi, để một mình nhà văn Mai Thảo cáng đáng. Nhà văn Mai Thảo một mình với tờ Văn, đã giữ được tới số cuối cùng, ngừng hẳn khi cuộc chiến đi tới giai đoạn kết thuc (& sau đó, ông đã tục bạn Văn hải-ngoại…từ 1982 - 1996 & trao lại giai đoạn sau (cũng cho) Nguyễn Xuân Hoàng từ 1/1997 – 4/2007)
🌟
Ngoài những tác giả thời danh hoạt động tại Saigon thời bấy giờ, trong một bài viết nhà văn Nguyễn Chí Kham đã tổng kết những gương mặt không đến từ Saigon nhưng góp một tiếng nói hết sức mạnh mẽ trong quá trình Văn được phát hành như sau: “…báo Văn đã có một công lớn dạy viết văn cho lớp người trẻ bằng sự kích thích họ đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, tự dưng khám phá vỡ ra được một cách nhìn, một cách viết.
Chỉ sau một năm đầu còn ít ỏi, lớp trẻ chỉ mới có một số tên tuổi sớm xuất hiện trên Văn như Y Uyên, Phan Duy Nhân, Ðào trường Phúc, NH Tay Ngàn, Trần Như Liên Phương, Nguyễn Vũ Ðan Vy, Nguyên Vũ, Thái Lãng, Lê Cao Nguyên, Văn Lệ Thiên qua những năm sau, những cây bút lúc đầu hẳn còn non kém dần tiến lên làm nên một đội ngũ, một lực lượng dự trữ cho Văn. Khi được một đội ngũ trẻ có học vấn, yêu thích văn chương, anh Trần Phong Giao rất hài lòng và kỳ vọng. Từ tỉnh đầu giới tuyến đến Sài Gòn, đến miền Ðông, miền Tây đã có:
- Quảng Trị: Phan Phụng Thạch, Thạch Nhân, Sương Biên Thùy
- Huế: Trần Doãn Nho, Hồ Minh Dũng, Trần Dzạ Lữ, Lê Bá Lăng, Thái Ngọc San, Lê Văn Ngăn, Lữ Quỳnh, Mường Mán, Ngụy Ngữ, Hoàng Hạ Lan, Hoàng Ngọc Tuấn, Huỳnh Hữu Ủy, Lê Nhược Thủy, Yên My, Trần yên Du, Trần Ðình Sơn Cước, Võ Quê.
- Ðà Nẵng: Nguyễn Nho Sa Mạc, Chu Trầm Nguyên Minh, Phương Tấn, Luân Hoán, Thành Tôn, Hà Thúc Sinh
- Hội An: Thái Tú Hạp, Ðinh Trầm Ca, Hoàng Thị Bích Ni.
- Tam Kỳ: Huy Tưởng, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Hoài Thư
- Quảng Ngãi: Hà Nguyên Thạch, Mê Cung, Phan Nhự Thức, Vương Thanh.
- Qui Nhơn: Trần Phiên Ngung, Ðặng Tấn Tới, Võ Chân Cửu.
- Tuy Hòa: Nguyễn Lệ Uyên, Trần Huyền Ân, Hoàng Ðình Huy Quan, Mang Viên Long, Cảnh Cửu.
- Nha Trang; Phạm Chu Sa, Văn Lệ Thiên
- Phan Rang: (không nhớ)
- Phan Thiết, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Thị Ngọc Minh
- Pleiku: Kim Tuấn, Lâm Hảo Dũng.
- …
Dù ở xa thủ đô Sài Gòn, nhưng từ các tỉnh miền Trung, miền Ðông, miền Tây, hay cao nguyên, sáng tác của những cây bút trẻ kể trên vẫn gởi đến Văn một cách đều đặn và thể hiện sự tiến bộ rõ rệt. Những sáng tác của người viết mới, không chỉ giữa anh em cùng lứa tuổi biết nhau mà còn được các nhà văn đàn anh để mắt đến. Từ đó, mỗi người viết trẻ có chỗ đứng, một vị trí vững vàng trên Văn. Ðể khích lệ, mỗi năm, người phụ trách bài vở Trần Phong Giao cũng dành một vài số đặc biệt cho tất cả những cây bút trẻ được thành danh.”
💐
“Bàn tay làm sao níu một đời vừa đi qua
Bàn tay làm sao giữ một thời yêu thiết tha…” (Trầm Tử Thiêng)
Tôi đang giữ đây, tròn 1 giáp - 12 năm 1964-1975 của một “di tích” văn chương thăng trầm nhưng rực rỡ… Để có được những số liên tiếp, may mắn thôi chưa đủ, còn là một chữ duyên & phận. Đằng đẵng của hơn 4000 ngày & sống sót sau hơn nửa thế kỷ chứa trong nó nhiều hơn là những áng văn đoạn thơ - còn là khai phóng, còn là nhân bản, còn là rộng mở của viết & đọc, còn là khói lửa, còn là máu & nước mắt, là chôn sâu, là xé nát, là một “chứng từ” tri thức, còn là Nam Việt Nam, còn là một “quê hương thu nhỏ”, còn là một “Sài Gòn kiếp trước”...ngỡ như “kiếp xưa bước nhẹ về”.

./.

(*) Bán nguyệt san Văn ra đời đầu tháng giêng năm 1964, với chủ nhiệm: Nguyễn Đình Vượng, thư kí tòa soạn: Trần Phong Giao, ban biên tập: Tràng-Thiên, Nguyễn Minh-Hoàng, Nguyễn Ngọc-Phách, Trần Thiện-Đạo và Thư-Trung. Số 209 (ra ngày 1/9/1972) là số ra quyết định kết thúc hình thức Bán Nguyệt San (đọc lí do trong “Thư tạm biệt thân hữu & bạn đọc”) và số 210 (ra ngày 15/9/1972) là số loan tin đổi thành Giai Phẩm Văn.
- 210 số bán nguyệt san Văn chính xác theo danh sách của chính báo Văn lập ra để bạn đọc theo dõi & hỏi mua các số thiếu (list cuối cùng cập nhập chính trong số bán nguyệt san đánh số cuối: 210) . Giai Phẩm Văn mình đang có (tính luôn 3 số Xuân 1973-1974-1975) tổng cộng 47 số thay vì 57 như trong một số list chưa xác minh đó giờ hay thấy trên internet. Theo quá trình sưu tầm & tìm kiếm của mình thì tạm thời vẫn chưa thấy quyển nào khác ngoài các quyển này.

20/12/2023
(20 năm từ ngày đầu biết đến tạp chí Văn)
Huyvespa@gmail.com
(Vui lòng ghi nguồn khi sử dụng hình ảnh và bài viết!)




































Hình bìa & toàn bộ Văn
https://photos.app.goo.gl/sw7FWCFm95Mb5tCT7

12 số Xuân qua 12 năm 1964-1975
https://photos.app.goo.gl/JtNH4hMiEHFP2cwr9

BÌA VÀ MỤC LỤC TOÀN BỘ VĂN THEO NĂM
Văn năm thứ nhất 1964
https://photos.app.goo.gl/JtNH4hMiEHFP2cwr9
Văn năm thứ hai 1965
https://photos.app.goo.gl/rtoXPRbGJc835ets7
Văn năm thứ ba 1966
https://photos.app.goo.gl/K9uEmkAqMCjnTxGs6
Văn năm thứ tư 1967
https://photos.app.goo.gl/ZPYGfgawGQw9Yr1aA
Văn năm thứ năm 1968
https://photos.app.goo.gl/bgRYPGLVEDdU1HAU8
Văn năm thứ sáu 1969
https://photos.app.goo.gl/YDowY7f5dfcvtnr76
Văn năm thứ bảy 1970
https://photos.app.goo.gl/YDowY7f5dfcvtnr76
Văn năm thứ tám 1971
https://photos.app.goo.gl/1RRE2QAe2YeqmRWNA
Văn năm thứ chín 1972
https://photos.app.goo.gl/FCAaB5ATkiLNWcB77
Giai phẩm Văn 1972-973-1974-1975
https://photos.app.goo.gl/FCAaB5ATkiLNWcB77


Năm thứ nhất 1964:

#1 - Tuyển tập Thơ Văn
#2 - Đặc biệt về Albert Camus
#3 - Giai phẩm Xuân Giáp Thìn - Tuyển tập Thơ Văn
#4 - Tuyển tập Thơ Văn
#5 - Những tiếng nói mới trong văn học
#6 - Tuyển tập Thơ Văn - Những cây bút trẻ
#7 - Đọc văn Stefan Zweig
#8 - Tuyển tập Thơ Văn
#9 - Đọc văn Alberto Movaria
#10 - Văn hóa Phật giáo
#11 - Những cây bút trẻ đang lên
#12 - Đọc văn Guy de Maupassant
#13 - Thơ văn nữ lưu
#14 - Tưởng niệm Nhất Linh
#15 - Tưởng niệm Tagore
#16 - Tuyển tập thơ văn - Đêm tóc rối của Dương Nghiễm Mậu
#17 - Đặc biệt: Jean-Paul Sartre
#18 - Thơ văn có lửa
#19 - André Maurois tự thuật
#20 - Tuyển tập Thơ Văn
#21 - Đọc văn André Malraux
#22 - Tưởng niệm Khái Hưng
#23 - Đọc thơ Jacques Prevert
#24 - Đọc văn Marie Noel

Năm thứ hai 1965:

#25 - Số đặc biệt Đệ Nhất chu niên - Albert Camus
#26 & 27 - Giai phẩm Xuân Ất Tỵ
#28 - Tuyển tập Thơ Văn
#29 - Tưởng niệm Lê Văn Trương
#30 - Đọc văn John Steinbeck
#31 - Tuyển tập Thơ Văn
#32 - Một tác giả: Erskine. Một tác phẩm: Kinh nghiệm đời văn
#33 - Đọc văn Lâm Ngữ Đường
$34 - Truy niệm Triều Sơn
#35 - Tản Đà
#36 - Tưởng niệm Thạch Lam
#37 - Đọc văn William Faulkner
#38 - Tuyển tập Thơ Văn
#39 - Tìm hiểu Franz Kafka
#40 - Tuyển tập Thơ Văn
#41 - Đọc văn Ernest Hemingway
#42 - Hà Nội, quê hương trong trí nhớ
#43 - 200 năm Nguyễn Du
#44 - 200 năm Nguyễn Du
#45 - Giới thiệu Francoise Sagan
#46 - Tuyển tập Thơ Văn
#47 - Giải Nobel Văn chương 1965
#48 - Kỷ niệm Đệ Nhị chu niên - Đọc văn Saint-Exupéry

Năm thứ ba 1966:
#49 & 50 - Giai phẩm Xuân Bính Ngọ
#51 - Đọc văn Somerset Maugham
#52 - Tuyển tập Thơ Văn
#53 - Đọc văn Anton Chekhov
#54 - Tuyển tập Thơ Văn
#55 - Đọc văn Luigi Pirandello
#56 - Tuyển tập Thơ Văn
#57 - Đọc văn Shintaro Ishihara
#58 - Tuyển tập Thơ Văn
#59 - Đọc văn Graham Greene
#60 - Tản Đà, Thạch Lam, Nguyễn Bính
#61 - Đọc văn Richard Wright
#62 - Tuyển tập Thơ Văn
#63 - Tuyển truyện Đại Hàn
#64 - Tưởng niệm Bích Khê
#65 - Đọc văn John Updike
#66 - Tuyển tập Thơ Văn
#67 - Tưởng niệm Vũ Trọng Phụng
#68 - Đọc văn Quỳnh Dao
#69 - Tuyển tập Thơ Văn
#70 - Đọc văn Hermann Hesse
#71 - Tuyển tập Thơ Văn
#72 - Mùa giải thưởng Văn chương

Năm thứ tư 1967:
#73 & 74 - Tưởng niệm Hàn Mặc Tử
#75 & 76 - Giai phẩm Xuân Đinh Mùi
#77 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập)
#78 - Đọc Simone de Beauvoir, nữ văn sĩ thời danh Pháp
#79 - Tuyển tập Thơ Văn
#80 - Tưởng niệm Hồ Biểu Chánh
#81 - Đọc văn Tennessee Williams, kịch tác gia lẫy lừng Hoa Kỳ
#82 - Nắng Hè (Tuyển tập)
#83 - Đọc văn Boris Pasternak, văn hào Nga, giải Nobel Văn chương 1958
#84 - Tuyển tập Thơ Văn
#85 - Đọc văn Marcel Proust, nhà văn kinh điển lớn của Pháp
#86 - Viết về Thơ
#87 - Tuyển tập Thơ Văn
#88 - Đọc văn Erskine Caldwell, tiểu thuyết gia thời danh Hoa Kỳ
#89 - Mây mùa Thu (Tuyển tập)
#90 - Tưởng niệm Hồ Thích, tư tưởng gia Trung Hoa
#91 - Thương nhớ Đinh Hùng
#92 - Tuyển tập Thơ Văn
#93 - Viết về Hội họa
#94 – Đọc văn André Gide, giải Văn chương Nobel 1947
#95 - Mưa cuối mùa (Tuyển tập)
#96 - Đọc Thomas Mann, văn hào Đức, giải Nobel Văn chương 1929 (số Giáng Sinh)

Năm thứ năm 1968:

#97 - Giới thiệu Eugene Evtouchenko, thi sĩ thời danh Nga-sô
#98 & 99 - Giai phẩm Xuân Mậu Thân
#100 & 101 - Viết trong khói lửa (Tuyển tập)
#102 - Mịt mờ thức mây (Tuyển tập)
#103 - Tưởng niệm Carlson McCullers, nữ văn sĩ danh tiếng Hoa-kỳ
#104 - Trên vai Việt Nam (Tuyển tập)
#105 - Đọc truyện Quách Lương Huệ, nữ văn sĩ thời danh Trung-hoa
#106 - Mảnh vụn trong hồn người (Tuyển tập)
#107 & 108 - Tưởng niệm Hoàng Đạo
#109 - Giới thiệu M.A. Asturias, nhà văn Guatemala, giải Nobel Văn chương 1967
#110 - Ngày trở lại Huế (Tuyển tập)
#111 - Mồng Một tháng Tám (Tuyển tập)
#112 - Giỗ đầu Đinh Hùng
#113 - Giới thiệu Bertolt Brecht, kịch tác gia bậc nhất nước Đức
#114 - Những cây bút trẻ (Tuyển tập)
#115 - Mở mắt nhìn quê hương (Tuyển tập)
#116 - Giới thiệu Norman Mailer, nhà văn nổi loạn xứ Hoa-kỳ
#117 - Thương nhớ Tchya Đái Đức Tuấn
#118 - Lối về chợ Trúc (Tuyển tập)
#119 - Tưởng niệm André Maurois, nhà văn lớn nước Pháp
#120 - Đêm Bethléem (Tuyển tập Giáng sinh)



Năm thứ sáu 1969:


#121 - Kỷ niệm Đệ Ngũ chu niên. Casey Calvert, nhà văn xứ Cuba
#122 - Mùa đông trong trí nhớ (Tuyển tập). Kawabata, nhà văn Nhật giải Nobel 1968
#123 & 124 - Giai phẩm Xuân Kỷ Dậu
#125 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập)
#126 - Như nước trong nguồn (Tuyển tập). Stefan Zweig, nhà văn Đức
#127 - Đầu mùa nắng lửa (Tuyển tập). Jakov Lind, nhà văn Đức
#128 - Số đặc biệt: Léon Tolstoi, văn hào Nga
#129 - Thương nhớ Y Uyên
#130 - Mặt trời tháng Tư (Tuyển tập). A. Solzhenitsyn, nhà văn Nga
#131 - Lệ đá đêm sâu (Tuyển tập). G.C. Infante, nhà văn xứ Cuba
#132 - Phượng trong thành nội (Tuyển tập)
#133 - Về nhánh sông xưa (Tuyển tập). Klaus Rochter, nhà văn Đức
#134 - Sầu xưa chín rụng (Tuyển tập). I.B. Singer, nhà văn Do-thái
#135 - Tuyển tập văn mới
#136 - Trên ngọn sầu đông (Tuyển tập)
#137 - Người đàn bà thành Prague
#138 - Những cây bút trẻ (Tuyển tập)
#139 - Nói với mùa thu (Tuyển tập). Tiber Déry, nhà văn Hung-gia-lợi
#140 - Số đặc biệt: Kawataba Yasunari
#141 - Phiến đá chưa mòn (Tuyển tập). John Cheever, nhà văn Hoa-kỳ
#142 - Đường bay của nghệ thuật (họa và thơ)
#143 - Mưa khóc tan mùa (Tuyển tập). Rafael Steinberg, nhà văn Hoa-kỳ
#144 - Bình an dưới thế, số đặc biệt Giáng sinh


Năm thứ bảy 1970:

#145 - Tưởng niệm Đông Hồ
#146 & 147 - Giai phẩm Xuân Canh Tuất
#148 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập trẻ)
#149 - Tuyển tập Thơ Văn
#150 - Số đặc biệt: Vũ Hoàng Chương
#151 - Tuyển tập Thơ Văn. Bernard Malamud, nhà văn Hoa-kỳ
#152 - Số đặc biệt: Jean-Paul Sartre (Pháp)
#153 - Trong nỗi buồn vàng (Tuyển tập trẻ)
#154 - Số đặc biệt: Mừng Phật đản 2514
#155 - Tuyển tập Thơ Văn. Irwin Shaw, nhà văn Hoa-kỳ
#156 - Số đặc biệt: Hoài niệm Nhất Linh
#157 - Số đặc biệt: Simone de Beauvoir (Pháp)
#158 - Mưa chưa dứt hạt (Tuyển tập trẻ)
#159 - Số đặc biệt: Hoài niệm Tchya Đái Đức Tuấn
#160 - Tuyển tập Thơ Văn. Dylan Thomas, nhà văn Anh-cát-lợi
#161 - Số đặc biệt: thi sĩ Quách Tấn
#162 - Tuyển truyện Á châu
#163 - Tuyển tập Thơ Văn. Alexander Solzhenitsyn, nhà văn Nga-sô
#164 - Đi giữa mùa Thu (tuyển tập trẻ)
#165 - Tuyển truyện Phi Châu da đen
#166 - Tuyển tập Thơ Văn. Irwin Shaw, nhà văn Hoa-kỳ
#167 - Tuyển tập Thơ Văn. Akutagawa Ryunosuke, nhà văn Nhật-bản
#168 - Tiếng hát lên trời, tuyển tập. Số đặc biệt mùa Giáng sinh

Năm thứ tám 1971:

#169 - Tưởng niệm Phạm Duy Tốn
#170 & 171 - Giai phẩm Xuân Tân Hợi
#172 - Đầu Xuân Lộc Mới (Tuyển tập trẻ)
#173 - Tuyển truyện "Gió Đông" của các nhà văn Á châu (tập 2)
#174 - Tuyển tập Thơ Văn
#175 - Số đặc biệt: Viết về Tản Đà
#176 - Bóng tối vây quanh (Tuyển tập trẻ)
#177 - Tuyển tập Thơ Văn
#178 - Tuyển truyện Nga-la-tư
#179 - Số đặc biệt: Viết về Hàn Mặc Tử
#180 - Tuyển tập Thơ Văn. Alexis Tolstoi, nhà văn Nga
#181 - Khi mùa mưa tới (Tuyển tập trẻ)
#182 - Tuyển tập Thơ Văn. Slawomir Mrozeki, kịch tác gia Ba-lan
#183 - Tuyển tập Thơ Văn. Sata Ineko, nữ văn sĩ Nhật-bản
#184 - Tuyển truyện Hung-gia-lợi
#185 - Tuyển tập Thơ Văn
#186 - Tưởng niệm Đông Hồ
#187 - Tuyển tập các tác giả trẻ
#188 – Tuyển tâp thơ văn
#189 – Viết về Nguyễn Bính
#190 – Thư chủ nhiệm gửi thân hữu và bạn đọc (15/11/1971)
#191 – Nhà văn Nhật Naoya Shiga, Pablo Neruda Nobel 71 (1/12/1971) 
#192 – Số đặc biệt Giáng Sinh 1971 (15/12/1971)

Năm thứ chín 1972:
#193 Kỷ niệm đệ nhất bát chu niên
#194-195 – Giai phẩm xuân Nhâm Tý (1/2/1972)
#196 – Số đặc biệt đầu năm (15/2/1972)
#197 – Số đặc biệt Sáu nhà văn trẻ (1/3/1972)
#198 – Số đặc biệt về thơ (15/3/1972)
#199 – Số đặc biệt về hội họa
#202 – Sáu nhà văn trẻ (15/5/1972)
#203 – Tuyển truyện Ý Đại lợi
#204 – Tùy bút, Bút ký, Hồi ký
#205 – Tuyển tập thơ văn
#206 – Bàn tròn: Thế giới tiểu thuyết của các nhà văn nữ
#207 – Tuyển tập thơ văn
#208 – Truyện ngắn Hồi giáo
#209 – Tuyển tập thơ văn
#210 – Tuyển tập thơ văn

Sau đó chuyển sang Giai Phẩm đánh số: https://photos.app.goo.gl/FCAaB5ATkiLNWcB77

Có thể đọc 1 vài số Văn ở đây: https://issuu.com/vietnamthuvien/stacks/f621764639af478ead525fc38cfdf2c6 

./.

NHẮN TIN:
CÁC QUYỂN SÁCH ĐANG CẦN TÌM:
https://photos.app.goo.gl/GrBqZYPqqxFQSeGH7


 1. Hôn Em Kỷ Niệm (tập nhạc của Duyên Anh) (NXB Nam Á)

2. Em tôi Saigon & Paris (thơ Duyên Anh) & Thơ Tù 

3. Rong Ca (tập nhạc Phạm Duy)

4.Mai Thảo - chân dung 15 nhà văn nhà thơ Vietnam (NXB Văn Khoa)

5.Hồn say phấn lạ (Duyên Anh) (NXB Xuân Thu)

6.Ðáy Ðịa Ngục (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1985

7.Những Khuôn Mặt Văn Nghệ – Đã Ði Qua Ðời Tôi (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1990

8.Hai Tập Hồi Ký Phạm Duy (trừ tập 2: thời KHÁNG CHIẾN) (Phạm Duy Cường productions) 

9. 2 tập thơ Nguyễn Tất Nhiên (Tâm Dung & Chuông Mơ) 














Thứ Năm, 20 tháng 7, 2023

Văn hải ngoại (thời Nguyễn Xuân Hoàng) (1997-2007)

Sau số 163 (9/1996), Văn (hải ngoại) chuyển sang hẳn cho Nguyễn Xuân Hoàng và ra Bộ Mới (số 1 - tháng Giêng 1997) & làm xong sứ mệnh của nó 10 năm sau với số đôi 123&124 (tháng 3&4-2007)

Sưu tầm sách cũ nó cũng có cái “căn” và là minh chứng rõ ràng cho một (vài) “thuyết” mà tôi luôn theo đuổi “never say never” (gì cũng có thể xảy ra hoặc “không có gì chắc chắn ngoài sự không chắc chắn”) hay “châm ngôn”: “J’ai fait la magique éluuude/ Du bonheur, qu’aucun n’élude” - “Ai nghĩ về hạnh phúc/ Sẽ đạt nguồn diễm phúc” (Arthur Rimbaud)
Trên tay tôi không chỉ là những ấn bản liền lạc của…một thế hệ đứt gãy, nó còn là những mảnh hồn tả tơi, là những mảnh ký ức & lịch sử đang dần bị lãng quên của một thời đoạn chưa xa; những ấn bản minh chứng cho việc không phải tất cả đều có thể lưu trữ và tìm kiếm trên không gian ảo - (và cũng khá khó khi tìm các ấn phẩm “hải ngoại” này - nhiều khi là khó hơn tìm các ấn phẩm trong nước trước 1975 - nếu không nhờ những “trợ duyên” thì cũng không thể “ôm niềm mơ đi giữa trời” hay “ôm ấp chi một định mệnh…buồn” như thế này được)
“Đừng tuyệt vọng nghe không / Còn trang thơ thắm lại với trời hồng” (Bùi Giáng)

MỤC LỤC CÁC SỐ BỘ MỚI:

https://photos.app.goo.gl/JMSnqMouuXUG2qDc9



Từ một bàn viết lữ thứ – căn phòng nhỏ ở phố Bolsa, văn-chương hải-ngoại đã được tạo dựng như thế…

“Chữ nghĩa đã hàm oan / Tâm kiệt cùng mực cạn / Ẩn mật chút men trong / Cất lòng sầu vô hạn… Có chiều thương bút mực / Bàn viết như mồ hoang / Yên nằm hồn lệ quỉ / Chờ ý xuống hộ tang…Quỉ ơi đời giấy trắng / Chờ ngươi đã nhiều năm / Có nghe nghìn xác sóng / Tìm nhau ngoài hư không?”

(Chuyện vãn cùng sách cũ – Viên Linh)

Trong một bài phỏng vấn khi được hỏi thế nào là “văn-chương hải-ngoại”, một nền văn chương sau 1975 mang nhiều khổ nạn và hệ lụy, nhà văn/ dịch giả Đào Trung Đạo đã nói “Để đánh dấu các mốc đó có lẽ chúng ta có thể căn cứ vào sự xuất hiện của các tạp chí văn chương (báo giấy), những trang mạng văn chương sau khi các tạp chí văn chương đình bản và những diện mạo văn chương mới. Về tạp chí văn chương (ở Mỹ, không kể ở Âu Châu) có hai tờ VĂN và VĂN HỌC qui tụ nhiều người viết nhất. Tờ VĂN do Mai Thảo “dựng bảng” lại – nhưng cương quyết từ chối danh xưng chủ nhiệm hay chủ biên – còn tờ VĂN HỌC do Nguyễn Mộng Giác đảm nhiệm” (1)

Từ một bàn viết lữ thứ, từ “một căn phòng 209 rất nhỏ trên lầu 2 của một chung cư dành cho người cao niên ngay phía sau hẻm nhà hàng Song Long”(2), phố Bolsa, Mai Thảo – một trong những tác giả tiên phong xiển dương và dựng nên một nền văn chương “nhà Việt Nam xây bên ngoài Việt Nam” như thế, với những trang bìa chỉ tuyền là tên các tác giả…nằm im lìm mà nghe như rưng rức một cảm hoài khó tả, từ 1982 cho đến 1996 trước khi chuyển sang bộ mới do Nguyễn Xuân Hoàng phụ trách – liên tục & đều đặn hàng tháng trong 14 năm ở một nơi viễn xứ, một chủ biên/ chủ bút/ chủ nhiệm “one-man-show” “ôm ấp chi một định mệnh buồn” như thế, khi chỉ có mình ông lo phần bài vở, tuyển chọn & giới thiệu những người viết mới, lo cả phần in ấn & phát hành, viết tay từng tên độc giả trên từng bì thư gửi đi hàng tháng…

Như từ kiếp trước, khi xem lại những trang Văn với độc nhất vô nhị mục “Sổ Tay” "được bạn đọc văn yêu thích nhất. Thường được gọi là “Sổ Tay Mai Thảo”. Đều đặn một năm 12 tháng, tháng nào ông cũng gửi đến độc giả thân mến của Văn một bài Sổ Tay. Với một giọng văn bay bướm ngắt câu lãng mạn kiểu Mai Thảo, mục Sổ Tay điểm mặt những bạn bè và những sinh hoạt văn chương văn nghệ xảy ra quanh thời đại ông. Qua trang Sổ Tay, người đọc khó tính của Văn tìm thấy ở chủ bút Mai Thảo một trình độ quốc tế, đọc được ngoại ngữ, tiêu hóa kiến thức thế giới, tương đối ít vọng ngoại thờ ngoại qúa độ, như độc giả khó tính vẫn thường thấy ở nhiều nhà trí thức dù sống nơi đâu nhưng vẫn còn mang tâm thức các xứ nhược tiểu.” (3) , “mỗi kỳ một chân dung nghệ sĩ” nhìn bởi Mai Thảo – như một chuyến tàu viễn hành ngược thời gian thuật lại những câu chuyện văn nghệ trước 1975 qua những kỷ niệm riêng tư để bắc cầu qua những câu chuyện mới hơn của những văn nghệ sĩ và bầu khí quyển văn nghệ những ngày đầu đến Mỹ – qua đó, mục “chân dung” không chỉ là cuốn album vẽ văn nghệ sĩ bằng ngòi bút rất Mai-Thảo mà đó còn là một trang biên niên sử về chính cảnh tình của những di dân tị nạn thời điểm bấy giờ, những di cảo (xuất hiện duy nhất trên những số bài này và hầu như không in lại hay xuất hiện lại lần nào nữa) của những tên tuổi lẫy lừng của văn chương miền Nam mà nay nhìn lại danh sách hầu như phần lớn đã “nghìn trùng xa cách”: Phạm Duy, Phạm Công Thiện, Thanh Tâm Tuyền, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nghiêm Xuân Hồng, Nhật Tiến, Nguyên Sa, Du Tử Lê… Khi nhìn những dòng chữ từ tên tác giả cho đến hồn cốt của những tác phẩm tưởng mất mà vẫn còn nơi những trang giấy nhuốm màu quá vãng, thật sự độc giả chắc cũng như người viết sẽ thấy mình đang đối thoại cùng quá khứ, đối thoại cùng những phần hồn “tương tư rót tràn trên giấy”.

Nếu một ngày xa phố Bolsa
Lấy ai ngồi nhắc chuyện quê nhà
Chắt chiu từng nỗi dường như vẫn
Tưởng dửng dưng mà rất thiết tha.

(Phùng Quân)

Một khoảng thời gian chưa đủ xa, nhưng ngày nay cũng đã không còn ai “chắt chiu nỗi dường như vẫn” vì dường như thế hệ ấy đã hao hụt (khá) nhiều và thế hệ tiếp nối đã như xóa ký ức, không dấu vết, những thùng sách lặng lẽ nằm trong garage, những thùng sách lặng lẽ rời khỏi nhà đến các bãi rác…đó là một thực trạng có thật và đau lòng…Tôi muốn níu giữ một chút những ấn phẩm này, không chỉ là “hình ảnh” của một thời đoạn của văn hóa nghệ thuật rất sôi động, rất…”chúng ta đi mang theo quê hương”, mà đó còn là những mảnh lịch sử đang trôi dạt vô định mà những con robot A.I còn chưa thu gom, lưu trữ và học được.

Ôi, rồi đây còn biết “ai tri âm đó mặn mà với ai”

Nguyễn Trường Trung Huy

  • http://www.gio-o.com/Chung/PhongVanDaoTrungDao.htm
  • Hành trình đến tự do: nhà văn thuyền nhân Mai Thảo – bài của Ngô Thế Vinh, phổ biến trên internet
  • Trích giới thiệu của Lê Thị Huệ – chủ biên trang gio-o

./.

Bìa và mục lục các các số Văn (bộ cũ) (thời Mai Thảo):

https://photos.app.goo.gl/h8U4Mam14sfz2e239

(Bài đã đăng trên Saigon Nhỏ https://saigonnhonews.com/nua-the-ky-nguoi-viet-hai-ngoai/roi-day-con-biet-ai-tri-am-do-man-ma-voi-ai/)



SÁCH (HẢI NGOẠI) CẦN TÌM:

1. Hôn Em Kỷ Niệm (tập nhạc của Duyên Anh) (NXB Nam Á)

2. Em tôi Saigon & Paris (thơ Duyên Anh) & Thơ Tù 

3. Rong Ca (tập nhạc Phạm Duy)

4.Mai Thảo - chân dung 15 nhà văn nhà thơ Vietnam (NXB Văn Khoa)

5.Hồn say phấn lạ (Duyên Anh) (NXB Xuân Thu)

6.Ðáy Ðịa Ngục (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1985

7.Những Khuôn Mặt Văn Nghệ – Đã Ði Qua Ðời Tôi (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1990

8.Hai Tập Hồi Ký Phạm Duy (trừ tập 2: thời KHÁNG CHIẾN) (Phạm Duy Cường productions) 

9. 2 tập thơ Nguyễn Tất Nhiên (Tâm Dung & Chuông Mơ)