''...Tôi không muốn làm lợi khí của bất cứ bên nào. Tất cả những điều tôi muốn
nói đều đã được nói ra trong các bài tâm ca hay trường ca, tôi không muốn vênh
vang một thái độ trong các tác phẩm ấy, tôi chỉ muốn phô diễn một lời than thở.
Ở đây tất cả dân tộc bị khiếp đảm vì cuộc chiến tranh kéo dài từ ba mươi năm
nay. Ai cũng muốn tìm nơi lẩn trốn, nhưng sự ra đi không phải chuyện dễ dàng,
cho nên người ta đâm ra tù túng, ngờ vực và đôi khi bạo nghiệt nữa ! Người ta
không có thì giờ để học hỏi, để đoàn kết, để giáo dục nhau. Mười Bài Tâm Ca ra
đời là để chống lại sự vong thân ấy! ''
Phạm Duy –
một nhạc sĩ ít khi nào có những tuyên ngôn về các tác phẩm của mình, có lần đã
nói như thế về 10 bài tâm ca. Mười bài Tâm Ca là mười cái nhìn cứu cấp vào một
nhân sinh trên bờ vong thân, tan vỡ. Nhiều người biết nhưng không tìm ra lời…
Mười bài
Tâm Ca đã cất lên tiếng nói lương tâm của con người đối mặt cùng sự thật và
nhận diện lại mọi thứ trong đời.
Tiếng nói
của tâm ca là tiếng nói đậm đà, tha thiết, có những lúc đi đến chỗ đắm đuối,
mời gọi mọi người bước vào để chia sẻ tình yêu. Tình yêu theo cái nghĩa tràn
đầy và dung chứa được mọi thứ của nó.
Tâm Ca số
1 Tôi Ước Mơ nhận diện cái bi đát của xã hội trong giai đoạn ấy.
Tâm Ca số
2 Tiếng Hát To là thái độ của tác giả trước sự bi đát đó.
Tâm Ca số
3 Ngồi Gần Nhau nhận diện sự chia rẽ dân tộc và kêu gọi đoàn kết.
Tâm Ca số
4 và số 6 Giọt Mưa Trên Lá, Một Cành Củi Khô nhận diện lại thiên nhiên, siêu
nhiên, đời sống con người khi được (hay bị) đặt vào cái thiên nhiên đó và trái
tim của nó hướng về những điều siêu nhiên kia.
Tâm Ca số
5 Ðể Lại Cho Em nhận diện lại gia tài của người đi trước để lại cho người đi
sau.
Tâm Ca số
7 Kẻ Thù Ta nhận diện kẻ thù.
Tâm Ca số
8 Ru Người Hấp Hối nhận diện cái chết.
Tâm Ca số
9 Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe nhận diện chính mình.
Tâm Ca số
10 Hát Với Tôi một tuyên ngôn, trình bày lại thái độ (và lời mời gọi) của tác
giả sau khi ta đã có cơ hội nhận diện lại mọi sự trong đời như thế.
Tâm ca số
2 là bài hát dài nhất trong mười bài Tâm Ca của Phạm Duy. Và vì nó dài, nó cũng
chứa đựng được rất nhiều hình tượng và tư tưởng nhân bản của Phạm Duy. Bài này
gồm tất cả 6 đoạn, không có điệp khúc.
“Tôi sẽ
hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già.Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo. Lời
tôi thay cho tiếng đạn bay. Lời tôi xây cho vững tay cầy (...) Tôi sẽ hát cho
vơi thống khổ vơi dòng lệ nhòa. Một miền quê, một miền quê tim héo và khô. Lời
tôi ca khâu vá tình thương, Lời hôm qua chắp nối Con Ðường, Lời hôm nay vương
tiếng Mẹ buồn, Lời mai đây cao ngút Trường Sơn…”
Tiếng
hát to hơn tiếng súng nổ gầm thét đêm đêm bên bờ ruộng lúa thân yêu kia. Nhưng
xin lúa đừng lo, lời ca tôi chỉ xin xây cho tay cầy thêm vững, cho dòng lệ nhoà
đi, và cho nỗi thống khổ vơi dần. Hôm qua tôi hát Con Ðường Cái Quan để xin làm
người lữ khách ra đi nối lại lòng người và đất nước. Hôm nay, tôi hát Mẹ Việt
Nam để tôn vinh Ðất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, và Biển Mẹ. Còn ngày mai, tôi sẽ hát
to tiếng hát Trường Sơn.
Trong
gần 1.000 bài hát được làm ra trong suốt cuộc đời ca nhân của mình, Phạm Duy đã
luôn luôn muốn nói đến tình yêu. Tình yêu trong mọi thế thái của nó. Ông cũng
đã không ngần ngại dùng những tiếng nói bình thường hay sống sượng của cuộc đời
để nói lên lòng yêu thương cuộc đời, sống và chết cho cuộc đời, của ông. Ông
cũng đã cất lên tiếng nói của Ðạo, của thăng hoa, siêu thoát để diễn tả cũng
những tâm tình tha thiết đó. Nhưng tiếng nói đi thẳng ra từ trái tim thi sĩ,
trái tim luôn đập cùng những nhịp đập với đời sống kia, có lẽ mới là những
tiếng nói đi sâu, và, nhờ thế, ở lại trong tâm hồn con người lâu nhất.
Tâm ca là
tiếng nói của lương tâm, lương tâm những người không chấp nhận: không chấp nhận
chiến tranh, không chấp nhận oán thù, không chấp nhận sa đoạ và nhất là không
chấp nhận mọi thứ nhãn hiệu mà người ta dán lên để biện minh cho những thảm
trạng ấy :
"Ðể
lại cho em một nước phân lìa
Ðể lại cho
em một giống nòi chia
Hận thù
nhân danh chủ nghĩa
Bạo tàn
vênh vang bề thế... “
Và như
thế; thì làm sao mà có thể phủ nhận 1 điều:"Không thể tưởng tượng một VN
không Phạm Duy - và một Phạm Duy không Việt Nam"
huyvespa@gmail.com
01.Tôi Ước Mơ (thơ: Nhất Hạnh) Thái Thanh
02.Tiếng Hát To _ Thái Thanh (ban Hoa Xuân)
03.Ngồi Gần Nhau - Phạm Duy
04.Giọt Mưa Trên Lá - Thái Thanh (ban Hoa Xuân)
05.Để Lại Cho Em (thơ: Nguyễn Đắc Xuân) Anh Ngọc _ Thái Thanh (Hoa Xuân)
06.Một Cành Củi Khô - Phạm Duy
07.Kẻ Thù Ta -Phạm Duy
08.Ru Người Hấp Hối - Thái Thanh
09.Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe - Duy Quang - Phạm Duy
10.Hát Với Tôi - Hợp ca
http://www.mediafire.com/file/3raehsz40nsirdu/MuoiBaiTamCa.rar
02.Tiếng Hát To _ Thái Thanh (ban Hoa Xuân)
03.Ngồi Gần Nhau - Phạm Duy
04.Giọt Mưa Trên Lá - Thái Thanh (ban Hoa Xuân)
05.Để Lại Cho Em (thơ: Nguyễn Đắc Xuân) Anh Ngọc _ Thái Thanh (Hoa Xuân)
06.Một Cành Củi Khô - Phạm Duy
07.Kẻ Thù Ta -Phạm Duy
08.Ru Người Hấp Hối - Thái Thanh
09.Tôi Bảo Tôi Mãi Mà Tôi Không Nghe - Duy Quang - Phạm Duy
10.Hát Với Tôi - Hợp ca
http://www.mediafire.com/file/3raehsz40nsirdu/MuoiBaiTamCa.rar
Thơ và nhạc trước 1975, như là
một quyền phép lạ lùng, vì nó mang cái hồn sâu kín, nó gợi nhớ, và nhắc nhớ....nhiều
khi chỉ bằng vài từ, ngữ.
Chỉ cần vài từ ngữ, sẽ thấy
thênh thang cung đường về kỉ niệm...Một chút xanh xao, mơ hồ của thưở vừa biết
yêu ... & rơi một nỗi sầu quạnh quẽ...sầu đã rụng thành hoa...đã đơm bông
kết trái thành những câu lục bát à ơi diễm tuyệt, vừa mang tâm sự hồn người,
vừa tha thiết một tình với quê hương.
Thơ Cung Trầm Tưởng là những
thực thể sống động như thế, những hàng, những chữ nằm im lìm trên giấy, nhưng
có sức lay động ghê gớm, và nhắc nhớ nhiều.
Cung Trầm Tưởng gắn bó với giai
đoạn đầu của thời chia đôi đất nước, qua thi tập Tình Ca, mười ba bài mà Phạm
Duy đã phổ nhạc 6 bài, đó là Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Về Ðây, Tương Phản (PD
đổi thành Bên ni bên nớ) , Khoác Kín (Phạm Duy đổi là Chiều Ðông) và Chưa Bao
Giờ Buồn Thế (Phạm Duy đổi thành Tiễn Em). Tất cả năm bài đều thuộc vào những
bài thơ phổ nhạc tiêu biểu cho sự gặp gỡ giữa thi ca và âm nhạc ở cung cao sáng
tạo.
Những tác phẩm này phần nào đã
ghi dấu một thời kỳ, thời kỳ mà những nhà thơ như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng...
từ Pháp, đem theo tư tưởng Tây phương về như món quà tặng cho lớp trẻ.
Phạm Duy đã từng nhận xét về
Cung Trầm Tưởng:
“…Saigon 1958. Chính quyền ở
miền Nam đã đứng vững sau mấy năm thành lập. Người dân (nhất là người dân ở
thành phố) sống trong an ninh và thịnh vượng hơn là trong thời chinh chiến vừa
qua. Phòng trà mọc lên khá nhiều. Thế hệ ca sĩ thứ ba ra đời sau các thế hệ ca
sĩ ''tiền bối '' Ái Liên, Thương Huyền, Thái Thanh v.v... Tân Nhạc ở miền Nam
phát triển mạnh mẽ với xu hướng nhạc tình.
Cung Trầm Tưởng, một thi sĩ trẻ
vừa ở Paris về, đưa cho tôi mấy bài thơ để phổ nhạc trong đó có hai bài nói về
mùa Thu và mùa Ðông Paris. So với nhạc tình thời đó, hai bài này rất mới lạ cho
nên được các nữ ca sĩ trẻ đẹp như Thanh Thúy, Thu Hương, Lệ Thanh trình bày hằng
đêm tại các phòng trà. Các Ðài Radio, các nhà xuất bản, các hãng làm đĩa hát
đua nhau phổ biến những bài thơ phổ nhạc này của chúng tôi. Nó trở thành những
tình khúc của một thời. Thời kỳ đẹp nhất của người Việt trong thế kỷ này chăng
?...”
Thụy Khê đã từng nhận định về
những bài thơ của Cung Trầm Tưởng được Phạm Duy phổ nhạc như sau....
“ Kiếp Sau - Bài thơ rất ngắn,
sau này Cung Trầm Tưởng có viết lại hai version khác, nhưng có lẽ vẫn không
vượt được bản đầu in năm 1959 ở Sài gòn:
“Bù em một thoáng trời gần,
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương
Quên thôi, bông sẽ phai hường,
mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu.
Non sông bóng mẹ sầu u,
mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu
Thôi em xanh mắt bồ câu,
vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương
Quên thôi, bông sẽ phai hường,
mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu.
Non sông bóng mẹ sầu u,
mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu
Thôi em xanh mắt bồ câu,
vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”
Kiếp Sau làm năm 1956. Hơn bốn
mươi năm. Không một vết nhăn.
Trò chuyện về thơ tức là chuyện
trò với chữ -vấn đề ngữ sự- nói như Cung Trầm Tưởng.
Trước hết là chữ bù. Bù em. Phạm Duy có lẽ vì nhu cầu âm nhạc đã đổi ra đền. Ðền em, nũng nịu, Tây hơn, hợp thời hơn, nhưng Bù em, mới hiếm, mới Việt. Chữ đền có nghĩa đổi trao, lấy đi rồi đền lại. Chữ bù chỉ thấy cho, chỉ "lấp đầy". Nguyên lý lấp đầy lại rất phụ nữ, rất nhục cảm, rất Sartrien, rất Cung Trầm Tưởng. Bù lại gần với âm bu. Bu là gọi mẹ theo tiếng quê ta. Một người "Tây con" như Cung Trầm Tưởng thời ấy, làm thơ tặng những em "tóc vàng sợi nhỏ" mà lại viết Bù em thật tuyệt.
Trước hết là chữ bù. Bù em. Phạm Duy có lẽ vì nhu cầu âm nhạc đã đổi ra đền. Ðền em, nũng nịu, Tây hơn, hợp thời hơn, nhưng Bù em, mới hiếm, mới Việt. Chữ đền có nghĩa đổi trao, lấy đi rồi đền lại. Chữ bù chỉ thấy cho, chỉ "lấp đầy". Nguyên lý lấp đầy lại rất phụ nữ, rất nhục cảm, rất Sartrien, rất Cung Trầm Tưởng. Bù lại gần với âm bu. Bu là gọi mẹ theo tiếng quê ta. Một người "Tây con" như Cung Trầm Tưởng thời ấy, làm thơ tặng những em "tóc vàng sợi nhỏ" mà lại viết Bù em thật tuyệt.
Nhưng Phạm Duy có lý khi ông đổi
lại là đền em. Ai cũng hiểu. Ở Phạm Duy là ý thức cộng đồng, ý thức dân ca, ở
Cung Trầm Tưởng là ý thức biệt dã, ý thức thi ca. Bù em là ngôn ngữ thứ nhất,
ngôn ngữ bùa chú khác lạ, không giống ai: Ngôn ngữ vừa được nhà thơ tác tạo. Cả
bài thơ có hơi cổ điển, có hồn ca dao. Nhưng không phải ca dao thuần túy mà là
ca dao đã hóa thân, cổ điển đã tục lụy.
“Thiêu nương đốt lá cũng rồi
hoang sơ”
Các cụ xưa đâu viết thế. Các cụ
môn đăng hộ đối, đâu có thẩy bình dân "cũng rồi" ngồi chung chiếu với
quý tộc "thiêu nương". Rồi lại:
“Thôi em xanh mắt bồ câu”
Ca dao đâu viết thế. Ca dao
thường trực tiếp, dễ hiểu: Em thôi, mắt xanh, hay mắt em, thôi xanh v.v... Nên
khi gặp thôi em xanh mắt người đọc lạc vào mê đạo.
“Mà xưa tiếng gọi nghe dường
thiên thu”
Toàn thể câu thơ là một bể hoang
đường, lạc đất.
Tất cả những "cũng rồi", "mà xưa", "nghe dường" gieo vào câu thơ ở những chỗ bất ngờ nhất, làm lỗi nhịp, làm đảo thần lục bát, phát sinh một hồi âm mới: Wagner hay Mozart? Phạm Duy hay Văn Cao? Có hết. Tất cả đồng quy ở tiếng gọi thiên thu hay tất cả đều đã hoang sơ?
Tất cả những "cũng rồi", "mà xưa", "nghe dường" gieo vào câu thơ ở những chỗ bất ngờ nhất, làm lỗi nhịp, làm đảo thần lục bát, phát sinh một hồi âm mới: Wagner hay Mozart? Phạm Duy hay Văn Cao? Có hết. Tất cả đồng quy ở tiếng gọi thiên thu hay tất cả đều đã hoang sơ?
Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một
thứ cổ dao hiện đại:
“Non sông bóng mẹ sầu u
Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu”
“Non sông bóng mẹ sầu u
Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu”
Những tiết tố âm nhạc, quá khứ,
hiện tại, không gian, thời gian, ẩn hiện, giao tỏa với nhau. Những hình ảnh sáo
mòn như "đơm hoa kết mộng", "sông Thương trắc trở" được hồi
sinh trong một kiếp mới, nhờ cách xếp câu, đảo tứ:
“Bù em một thoáng trời gần,
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương”
đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
Bù em góp núi chung đồi
thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
Bù em xuôi có ngàn thơ,
vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương”
Những cách treo chữ: cũng rồi,
cũng ngần..., buông chữ: bù em, thôi em..., đảo chữ: mòn trông..., hoặc tạo
cảnh: chiều lu mái sầu... đều có tính cách phá tán âm thanh lục bát, phá tan
nội dung ca dao để tạo ra, về mặt thời gian, một tiếng gọi từ ngàn xưa vọng
lại, về mặt âm thanh và tư tưởng, một khúc điệu mới, phong liệm nỗi buồn nguyên
thủy, rồi nghiền tán nó ra, rắc vào không gian, gieo vào vũ trụ, tạo ra một môi
trường buồn ẩm nhạc:
“Ngày đi, chiều tới không
nghiêm,
khoan thai gió cởi phong niêm rũ buồn
Bờ nghiêng nắng giốc đường thuôn,
thiết tha tiếng cũ nghe luồn không trung.”
(Về Ðây)
khoan thai gió cởi phong niêm rũ buồn
Bờ nghiêng nắng giốc đường thuôn,
thiết tha tiếng cũ nghe luồn không trung.”
(Về Ðây)
Trong bài Bémol, Buồn lại rơi
theo nhịp khác, như nốt nhạc bị giam cầm:
“Chiều buồn lạc thanh âm
Hoang sơ vào khuya tối
Linh hồn tôi dương cầm”
Hoang sơ vào khuya tối
Linh hồn tôi dương cầm”
Bài Khoác Kín cũng là một trong
những giá trị độc đáo của thi ca Cung Trầm Tưởng mà Phạm Duy đã phổ nhạc và đổi
tên thành Chiều Ðông (Phạm Duy có tài lựa những tuyệt tác của mỗi tác giả để
đưa vào cung bậc âm thanh). Khoác Kín cũng là một bài thơ ngắn, nhưng mỗi câu,
mỗi chữ đều là những giọt tuyết lệ của thời gian, nhỏ trong không gian tàn tạ:
“Chiều đông tuyết lũng âm u
bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tầu cũng đi luôn,
ga thôn trơ nỗi, băng nguồn héo hon.
Phường xa nhịp sắt bon bon,
tàu như dưới tỉnh, núi còn vọng âm.
Sân ga mái giọt âm thầm:
Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào?
Mình tôi với tuyết non cao;
với cồn phố tịnh buốt vào xương da;
với mây trên nhợt ánh tà;
với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu.
Tôi về bước bước đăm chiêu,
tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm.”
bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tầu cũng đi luôn,
ga thôn trơ nỗi, băng nguồn héo hon.
Phường xa nhịp sắt bon bon,
tàu như dưới tỉnh, núi còn vọng âm.
Sân ga mái giọt âm thầm:
Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào?
Mình tôi với tuyết non cao;
với cồn phố tịnh buốt vào xương da;
với mây trên nhợt ánh tà;
với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu.
Tôi về bước bước đăm chiêu,
tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm.”
Giọng buồn Cung Trầm Tưởng, thời
55-60, đã khác hẳn giọng sầu Huy Cận trong thời thơ mới. Cung Trầm Tưởng đem
lại một cô đơn mới: Cô đơn hiện sinh. Cô đơn của con người trong sự nhận thức
lại chính mình. Cô đơn của một Roquentin trực diện với "bản lai chân diện
mục" của mình trước gương soi mói, soát lục. Cô đơn của gã tử tù
Meurseult, xa lạ với loài người:
“Hoang liêu về chết tha ma
Tiếng chân gõ guốc người xa vắng người”
(Tương Phản)
Tiếng chân gõ guốc người xa vắng người”
(Tương Phản)
Và chắc hẳn Wagner dưới suối
vàng cũng đã có phần nào trách nhiệm trong cách biến tấu nhịp điệu thể xác và
linh hồn lục bát Cung Trầm Tưởng" ./.