Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2009

Dạ vũ...

Thập niên 90...
Quay ngược thời gian để .."chìm trong muôn thửơ"..
Khoảng không gian và thời gian êm đềm như nhung...
Những khúc nhạc vang rộn ràng như ánh sáng 1 ngày vui...
Đó là lúc nằm ườn trên chiếc sofa để trôi theo nhạc...
Đó là lúc mưa reo hát bên ngoài song cửa còn trong phòng thì bập bùng những thanh âm vui...
...
Dù sao thì cũng không thể get back, WHAT HAPPENED-HAPPENED, nhưng cũng còn hên WHATEVERS MAKES IT HAPPENED HASNT HAPPENED YET....:))thôi đành..play back vậy!!!

Image
Image


PART 1
PART 2

ENJOY!

Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2009

Nhớ lại trong đêm nay...

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Chim về góc biển . Bóng ra khơi
Lòng tôi lũng thấp . Tâm hiu quạnh
Chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Buổi chiều chăn gối thiếu hơi ai
Em đi để lại hồn thơ dại
Tôi vó câu buồn sâu sớm mai

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Em còn gương lược dấu đường ngôi
Nằm mơ thấy tóc thơm vai hẹn
Và khoảng trời xanh đến rợn người

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Bàn tay dư mấy ngón chia phôi
(Tặng nhau chín ngón không đeo nhẫn)
Và những tàn phai đầy tuổi tôi

Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
Như trời nhớ đất (rất xa xôi)
Nắng mưa nhớ mãi hàng hiên đợi
Thư nhớ hồi âm - Lệ nhớ môi

Chỉ nhớ người thôi sông đủ cạn
Nói gì kiếp khác với đời sau
Đôi khi nghe ấm trên da thịt
Như thể ai đi mới trở về

(DU TỬ LÊ)

"Ông nói đúng lắm. Chỉ một nỗi nhớ thôi, nghìn kiếp còn chưa thấm tháp bỏ bèn gì, nói chi là cái trăm năm ngắn ngủi của một kiếp người mù sương…Nhưng chỉ những câu chữ và ý tưởng của riêng ông thì vẫn chưa đủ để tôi chìm sâu hơn vào những nỗi nhớ. Trần Duy Đức đã một ngày đẩy nỗi nhớ đó lên một cõi thinh không xa vời mộng mị bằng những làn điệu xa vắng khơi vơi đến mê hoặc và cái giọng khàn khó kiếm của Lê Uyên đã giúp tôi lên tới được cái ngọn nguồn thăm thẳm đó vào một đêm khuya nhìn quanh không người. Biết cảm ơn người nào trong số họ đây ?"

(TOẠI KHANH tùy bút)
--------------------------------------------------------------------------------------------------
Chúng ta đã biết tới - Vũ Thành An với những tình khúc khó quên mang những con số trước ngày chúng ta bỏ nước ra đi, chúng ta đã biết tới - Từ Công Phụng với giọng hát đầm ấm, mượt mà và những khúc tình ca thời thượng cho đôi lứa, chúng ta đã biết tới - Nguyễn Đức Quang trong phong trào du ca với những khúc ca làm phấn khởi lòng người cùng với tình quê hương dạt dào, chúng ta đã biết tới - Nam Lộc như một người thân quen tự những ngày đầu trên miền đất mới, với những giòng nhạc xót xa, và - Lê Xuân Hân, người nhạc sĩ trẻ đến từ Úc Châu.

Những người nghệ sĩ này chúng ta đã thấy đã nghe trên các chương trình truyền hình, băng video và qua các làn sóng phát thanh- hôm nay thực sự đối diện với người nghe, hát cho chúng ta nghe nhạc của Trần Duy Đức, nhạc của Trần Duy Đức phổ thơ của thi sĩ Du Tử Lê cùng các nhà thơ khác: Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Dũng Tiến, Giang, Trần Thiện Hiệp, Hà Nguyên Du, Ngô Tịnh Yên... để thấy nhạc Trần Duy Đức khởi sắc và độc đáo trong giòng nhạc hải ngoại hôm nay .
.................
Còn nhớ lại một buổi chiều mưa tháng hai Cali, lái xe một mình, trong khi bên ngoài không gian trắng xóa những hạt mưa xối xả, bỗng dưng khúc mưa sầu của Trần Duy Đức chợt hiện ra, không hẹn mà đúng lúc. Những tháng ngày tưởng như đã xa tắp, xếp hàng nối lại như những đợt mưa, ào ạt sống lại qua giòng nhạc " ta về đâu, ngày qua ngày..."với giọng hát của một ngừoi đã khuất, Ngọc Lan. Không ngờ khúc nhạc đầu tay của một người lính trẻ ngày nào trên vùng đất cao nguyên Pleiku lại thấm mệt nỗi buồn phiền của những ngày xa xứ bây giờø, trong cơn mưa...Cũng không ngờ, đó là một khúc nhạc đã thành hình cách đây những ba mươi năm, khi Trần Duy Đức còn quá trẻ mới bước qua tuổi thiếu niên, nghĩa là chàng mới vừa mười tám tuổi, làm anh lính trẻ ngu ngơ trên vùng đất đỏ, ở thành phố " đi dăm bước đã trở về chốn cũ..". Những giòng nhạc đó về sau này đã trở thành nguồn cảm hứng yêu mến cho bao nhiêu ca sĩ để đưa vào những tác phẩm trình làng và để lại cho đời của họ...
Tôi đã nghe bản "Khúc Mưa Sầu" hòa tấu với tiếng đàn cổ koto, và nghĩ tới lời nhiều người đã cho rằng, tiền kiếp của Trần Duy Đức là một đạo sĩ khổ hạnh xứ mặt trời, ngày nay chàng hiện thân là người nghệ sĩ với vầng trán cao, râu rậm đã đem âm thanh huyền hoặc vào cho cuộc đời phiền muộn này. Bây giờ chàng đã xuống núi, vựơt qua bao nhiêu biển rộng, sông dài để đến với chúng ta, kết nhạc vào những bài thơ mà ta yêu mến, những bài thơ rướm máu xé nát cõi lòng nhau hay những bài thơ ru những nỗi đau nhẹ nhàng của một thời yêu thương đã xa. Chàng đã mang tuổi trẻ từ một quê hương xa tắp, hát lên cho ta nghe những nỗi tuyệt vọng, thương xót, muộn phiền.. để chúng ta có một Trần Duy Đức hôm nay. Nhạc của chàng không vui, không nghe tiếng xôn xao của những nụ cười hạnh phúc, nhạc của chàng thường nói tới những gì đã qua, những gì đã mất mát, nhắc tới những người cùng những tháng ngày đã xa. Chàng nói tới lẻ loi, muộn màng, hồi tưởng..Những điều đó cũng là vùng kỷ niệm mù sương ta tìm nghe, thấy trong thơ Du Tử Lê.
Người ta biết tới nhiều về nhạc sĩ Trần Duy Đức như là đôi bạn Thơ và Nhạc cùng với nhà thơ Du Tử Lê, hơn là một nhạc sĩ có nhiều ca khúc sáng tác. Điều đó không có gì là lạ với một nhạc sĩ có lòng với thơ như Trần Duy Đức. Chàng không dấu diếm cho rằng vì chàng là một người đã làm thơ và yêu thơ, nên trong hơn một trăm năm mươi ca khúc đã viết, trong đó đã có hơn một trăm bài phổ nhạc từ thơ. Tôi nói, "từ thơ.." mà không nói từ ý thơ. Trong khi nhạc sĩ Phạm Duy, dù người ta đã gọi ông là "tay phù thủy của âm nhạc", đôi khi đã gần như cắt nát những bài thơ, viết những giòng ngôn ngữ mới cho vừa với nốt nhạc của ông như " Màu Tím Hoa Sim, Kỷ Vật Cho Em, Ngày Xưa Hoàng Thị...", thì Trần Duy Đức, trân trọng dừng lại nơi những vần thơ khúc mắc của thi sĩ. Chàng đã đem hết lời thơ vào nhạc, và nâng nét nhạc lên cho hết ý thơ.
Tôi thích nhất là hai bài nhạc phổ thơ Du Tử Lê -- Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi và Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau -- hơi nhạc Trần Duy Đức như gặp lời thơ tri kỷ, nhịp nhàng đồng bộ, thông suốt, uốn khúc nhưng nhẹ nhàng như giòng sông xuôi chảy, hình như tài hoa của Lê đã viết ra cho nhạc của Đức, hay như đời đã cho Trần Duy Đức vào trong cuộc sống thăng hoa của Du Tử Lê. Tuy vậy, từ những ngày hai bạn chưa hề gặp gỡ nhau, cái ngày chàng lính trẻ còn nghêu ngao trên phố núi, chàng đã yêu thơ của Du Tử Lê qua những trang thơ chàng đọc, mười năm trước khi gặp tác giả phổ hai bài thơ "Đời Mãi Ở Phương Đông" hay "Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt", trao đổi trong một nhóm bạn bè như niềm vui riêng của mình. Chính vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên trong gia tài âm nhạc của Trần Duy Dức, chàng đã có hơn hai mươi bài viết từ thơ của một người "mang đầy mình những vết sẹo và những vết thương tình chưa đâm da non" mà người đời gọi là nhà thơ Du Tử Lê.
Chính Du Tử Lê đã cho rằng bài thơ "Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu" là một bài thơ có những đoạn đường dốc, khúc khuỷu, là những dấu hỏi ngã mà các bạn nhạc sĩ của anh, tuy thích nhưng vẫn ngại đem vào nhạc. Tôi không nghĩ Trần Duy Đức là người lập dị đi tìm cái khó hay là có tài năng hơn kẻ khác, mà tôi nghĩ là chàng yêu quí thơ, không chọn cái dễ dàng, nở một nụ cười khi đã vượt qua những con đường dốc ấy. Người ta thường ngại phổ thơ tự do và lục bát. Thơ tự do khó đem vào tiết diệu của âm nhạc, lục bát lại rất dễ rơi vào chỗ đều đặn, buồn nản. Trần Duy Đức đã chứng tỏ chàng đã vượt qua điều đó với thơ tự do" Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt" của Du Tử Lê và lục bát" Hoa Ơi Có Biết Lòng Ta Nhớ Người" của Nguyễn Dũng Tiến.
Tuy số lượng nhạc phẩm của Trần Duy Đức không ít, trong quần chúng nhạc của Trần Duy Đức không được phổ biến nhiều, chàng viết nhạc có lẽ cho riêng một số người và không phải tất cả ca sĩ đều dễ dàng tìm đến với nhạc chàng, do đó đôi lúc tôi vẫn có cái cảm tưởng rằng viết nhạc chỉ là nghề tay trái của Trần Duy Đức, nhưng biết đâu chàng lại thuận tay trái? Mặt khác, nhạc của Trần Duy Đức có những nét lạ lùng, khắc khoải..như trong bài "Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau" khiến người nghe không thể buông thả tâm hồn, mà gần như thông cảm, đắm đuối, gắn chặt với nó, càng lâu càng thấm đượm như men rượu ngây ngất. Nghe nhạc Trần Duy Đức không nên nghe qua chỉ một lần.
Vì cái điều thiếu sót nhạc Trần Duy Đức không thường trực ở bên ta mỗi ngày, nên chàng đã tìm cố gắng tạo nên những cuộc gặp gỡ bạn bè tri kỷ, giữa những người viết nhạc, làm thơ, những người đồng điệu yêu mến, ít ỏi, hiếm hoi.............
(HUY PHƯƠNG-VIỆT BÁO)

Thứ Năm, 5 tháng 3, 2009

Trịnh Vĩnh Trinh-Cho Đời Chút Ơn...

...Như 1 cơn gió thoảng, “đến như trong cuộc chơi”..nên “ ra đi cũng rất thảnh thơi”.

TVT hát nhạc Trịnh mà nghe như lời thủ thỉ bên tai...

1 giọng hát vừa mạnh mẽ vừa mềm yếu, vừa lãng mạn vừa thực tế, vừa từng trải vừa ngây thơ...

Chỉ khi nghe TVT hát nhạc Trịnh, mới thấy hết nét giản đơn mà thâm thúy cuả âm nhạc TCS, chỉ khi nghe TVT hát nhạc Trịnh, những thăng trầm trong từng câu chữ mới thấy thật nhẹ nhàng...

“Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời rộng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xoá hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn” ( TCS)

Hãy ngẫm lại nỗi buồn trong nhạc TRỊNH, đó phải chăng là nỗi buồn..còn lại sau những suy ngẫm, sau những trải nghiệm, sau những bước đường chông chênh...Nỗi buồn đó là những nỗi buồn để tha thứ...thứ tha những lỗi lầm, những nát tan, thứ tha chính cho thân phận mình. Trịnh Vĩnh Trinh bằng nỗi lòng của "người về bỗng nhớ", đã hát cho chúng ta bằng tâm thế của những nỗi buồn đó!!!!

Tiếng hát ấy đưa chúng ta đến nhiều cõi mênh mang vô bờ cuả nhạc Trịnh...

Tiếng hát ấy dẫn lối chúng ta đến “soi bóng mình” bên dòng sông tâm tưởng, nhìn thấy mây bây ngang...như đời trôi qua...khoan dung và nhẹ nhàng như nó vốn thế...

Tiếng hát ấy dắt chúng ta ngoái nhìn lại những niềm đau, nỗi vui, cùng thính giả băng qua sân ga cuả nhiều..miền kí ức, để rồi thấy hết thẩy những cay đắng, những vui buồn trong đời sống này....cuối cùng chỉ như là một “phút ấy tình cờ”.
http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU28/2.jpeg?et=utl4vS0uSbmWdCMZUUx%2CsQ&nmid=0
http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU30/3.jpeg?et=omfIGeuE%2CoBnNSj8E1EG0Q&nmid=0


PART 1

PART 2

http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU32/4.jpeg?et=mt0lb6dOf6ilUVQ0NR6xDA&nmid=0

http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU34/5.jpeg?et=bQfPbDSeQ7fFqs2aZ684gw&nmid=0

DOWNLOAD

http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU36/6.jpeg?et=hMtmm0jxLm%2CMZDW6doJB0g&nmid=0

http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU38/7.jpeg?et=CtlrtPvyidm8WVJIn6ijxQ&nmid=0

DOWNLOAD




http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU40/8.jpeg?et=WJ7OM4WKHQV0jz12KEd3HA&nmid=0

http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU42/9.jpeg?et=NKvkJP5bJXc2aMVfPy3zcw&nmid=0
DOWNLOAD

http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU44/10.jpeg?et=JaIkkgATe9qGUbU6e%2BuCfg&nmid=0

http://images.huyvespa.multiply.com/image/1/photos/upload/orig/SdeeZwoKCEsAAAjwTAU46/11.jpeg?et=59ScJNQaupJ9STcIAegT3Q&nmid=0

http://www.megaupload.com/?d=CUKPTPI6

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2009

{episode 10}-SAIGON-Một thời cho một đời (Nguyễn Mạnh Trinh)

Có nhiều bài thơ về Sài Gòn. Thành phố ấy, với nhiều người, là thánh địa của kỷ niệm. Với Nguyên Sa, là Tám Phố Sài Gòn, là “Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều”, là “Sài Gòn phóng solex rất nhanh" "Sài Gòn ngồi thư viện rất ngoan" “Sài Gòn tối đi học một mình", "Sài Gòn cười đôi môi rất tròn”, là “Sài Gòn gối đầu trên cánh tay”.. Với Quách Thoại buổi sáng, là “sáng nay tôi bước ra giữa thị thành/để nghe phố nói nỗi niềm mới lạ/tiếng xe tiếng còi tôi nghe đường xá / cả âm thanh của cuộc sống mọi người/ một nụ cười chạy ẩn giữa môi tươi/trên tim nóng trong linh hồn tất cả /..” Với Trần Dạ Từ là buổi trưa, về Thị Nghè: "vẫn một mặt trời trên mỗi chúng ta/ và mỗi chúng ta trên một bóng hình/tôi vô giác như mặt đường nhựa ẩm/trũng nỗi sầu đau náo nức lưu thông/mùa hạ đi qua tựa hồ giấc mộng/ tôi chạy điên trong một bánh xe tròn / và đứa trẻ hít còi người đàn bà bước xuống/ ôi chiếc cầu , ôi sở thú. ôi giòng sông/..” Với Cung Trầm Tưởng, là mưa, là “mưa rơi đêm lạnh Sài Gòn / mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi/ mưa hay trời cũng thế thôi/ đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang/..” Với Luân Hoán, là ngồi quán, là “ngồi La Pagode ngắm người/thấy em nhức nhối nói cười lượn qua/mini-jupe trắng nõn nà/vàng thu gió lộng chiều sa gót giày/ ngẩn theo tóc, tuyệt vời bay/ hồn thơ thức mộng trọn ngày bình yên/” Với Bùi Chí Vinh, là ngày bãi trường mùa hạ “những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng / em chở mùa hè của tôi đi đâu/ chùm phượng vĩ là tuổi tôi mười tám / tuổi thơ ngây khờ dại mối tình đầu..”..

Và với nhiều thi sĩ khác, Sài Gòn là phố cây xanh, là đêm cúp điện, là chiều mưa giọt, là trưa nắng đỏ. Ôi Sài Gòn, của cõi thơ không cùng, của những chân trời thi ca bao la, của những trái tim lúc nào cũng dồn dập nhịp thở của tháng ngày tuy náo động nhưng chẳng thể nào quên.

Với riêng tôi, Sài Gòn là muôn vàn kỷ niệm. Là những con đường quen thân , nhắc lại một thuở ấu thời. Là ngôi trường Chu văn An, nơi tôi miệt mài suốt bảy năm trung học. Là trường Khoa Học, là trường Luật trướv khi vào lính. Là cổng Phi Long vào phi trường Tân Sơm Nhứt khi vừa nhập ngũ. Là những mơ mộng tuổi trẻ, lúc vừa bước vào đời sống quân đội trong một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh.

Buổi trưa , nằm dài trên sân cỏ mượt nhìn lên nóc nhà thờ Ngã Sáu , dưới bóng cây dầu cao vút, nghĩ về tương lai nhìn theo những sợi mây bay qua . Nghe xôn xao trong lòng những sợi nắng lung linh. Ôi, thuở còn đi học, mấy ai tiên đoán được số mệnh mình. Mây bay đi, như đời trôi qua.

“nằm trên cỏ nhìn trời cao

lung linh sợi nắng thuở nào phai phai

nhìn tượng Chúa dưới tàng cây

giơ vai chĩu nặng tháng ngày chiến tranh

mùa hạ mấy bước đi quanh

cổng trường đóng những đoạn đành thế thôi

ngày mai đi bốn phương trời

mây phiêu lãng chợt thương đời phù du..”

Sài Gòn những mùa thu. Có những con đường xôn xao áo lụa. Có những buổi tan học nhìn tà áo trắng mà mơ ước vu vơ. Để đêm về, trên trang vở học trò, vẽ bâng quơ đôi mắt ai, mái tóc ai:

“Thành phố ấy , xôn xao tà áo trắng

nắng hanh vàng trải lụa những mùa thu

guốc chân sáo để hồn ai ngơ ngẩn

bước mênh mang nghe quẩn sợi sương mù

mây vào áo lồng lộng bay chiều gió

lụa trắng trong e ấp buổi hẹn hò

sợi mi cong tưởng chập chờn ngực thở

tóc ai buông dài xõa những câu thơ.

Thành phố ấy, mấy ngã tư đèn đỏ

Ai chờ ai khi kẻng đánh tan trường

Bài thơ trao còn nguyên trong cuốn vở

Thuở ngại ngùng lần bước đến yêu thương..”

Sài Gòn của một thời mặc áo lính. Khi ở xứ biên trấn xa xôi, nhớ về thành phố với người thương, với phố quen, trên máy bay lượn vòng thành phố , nghe như mình đã trỡ về quê hương mình. Khi đổi về đơn vị ở phi trường Biên Hòa , mỗi buổi sáng tinh sương ghé phở Tàu Bay, ăn tô phở đầu ngày trong cái không khí trong veo buổi sớm , nay nhớ lại còn trong dư vị miếng ăn ngon của một thời tuổi trẻ.

Năm 1968, lệnh tổng động viên nên vào lính nhập khoá với những người cùng trang lứa. Lúc ấy, với hăng hái của người nhập cuộc, hiểu được bổn phận của một công dân thi hành nghĩa vụ quân sự với đất nước. Lúc ấy, mắt trong veo và tâm hồn như tờ giấy trắng:

"Bọn ta ba trăm thằng tuổi trẻ

Chọn không gian tổ quốc mênh mông

Mắt sáng môi tươi như tranh vẽ

Vào lửa binh không chút nao lòng

Chia sẻ với nhau thời bão gió

Đời muôn nhánh rẽ ngược xuôi nguồn

Cánh chim phiêu bạc ngàn cổ độ

Tử sinh ai luận chuyện mất còn?

Ngồi uống cùng nhau các hảo hán

Tưởng ngày xưa rượu tiễn lên đường

Sách vở giảng đường thành dĩ vãng

Những chàng trai dệt mộng muôn phương..”

Rồi , vận nước đến thời , gia đình ly tán, đi vào trại tù , nếm đủ những cay đắng của đời cải tạo . Khi trở về, Sài Gòn, cảnh vẫn cũ nhưng người xưa đã khác . Như Từ Thức về trần , cả một thế thời thay đổi. Người về, từ trại tù nhỏ sang qua nhà giam lớn, vẫn những con mắt công an cú vọ rập rình, vẫn những lý lịch trích dọc, trích ngang đeo đuổi. Tạm trú, tạm ngụ , ở chính ngôi nhà của mình. Nơi sẽ định cư của những người tù cải tạo , là những vùng kinh tế mới xa xăm , những nơi chốn đầy ải của ngày tuyệt lộ. Trở về xóm cũ, làm người lạ mặt:

“Đỏ bầm mặt nhựt cơn mê

lạnh tanh khuôn mắt người về dửng dưng

vào ra lối rẽ ngập ngừng

mấy năm sao lạ , nỗi mừng chợt xa

cầu thang quẩn dấu chân qua

đời như hạt nước mưa sa bóng chiều

từ rừng máu giọt gót xiêu

thảm thương phố cũ nắng thiêu mộng người

đỏ bầm ánh điện đường soi

cây nhân sinh chợt nẩy chồi cuồng điên

nhìn soi mói nụ cười đen

mắt hằn dấu đóng chao nghiêng một ngày.”

Về trình diện công an khu vực , nhìn nụ cườigằn vừa mỉa mai vừa soi mói , nhìn đôi mắt cú đóng dấu vào một ngày thất thế của người bại binh, ôi đau xót cho một đời ngã ngựa.

Ở Sài Gòn những ngày giặc chiếm, vẫn còn âm hưởng của một cuộc chiến chưa tàn . Trên chuyếbn xe bus nội ô, một người lính què dẫn dắt người lính mù hát những bài hát ngày xưa ngày còn chiến đấu dưới cờ. Quân lực VNCH là tập thể của những người lính tin tưởng vào công việc làm của mình. Dù thua trận nhưng họ không muốn làm hèn binh nhục tướng…

“trang lịch sử đã dầy thêm lớp bụi

ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng

Và lãnh đạm chẳng còn người nhắc đến

Người trở về từ cuộc chiến lãng quên

Đôi mắt đục nhìn mỏi mòn kiếp khác

Dắt dìu nhau khập khiễng chuyến xe đời

Người thua trận phần thịt xương bỏ lại

Trên ruộng đồng sầu quê mẹ rã rời

Chuyến xe vang lời thơ nào năm cũ

Nhắc chặng đường binh lửa thuở xa xưa

khói mịt mù thời chiến tranh bụi phủ

Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa

Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc

Thuở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay

Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược

Dấu giày buồn còn vết giữa sình lầy

Nghe lời hát tưởng đến người gục ngã

Cả chuyến xe chia sẻ một nỗi niềm

Âm thanh cao xoáy tròn dù gỗ đá

Thức hồn người vào nhịp thở chưa quên

Ơi tiếng hát vinh danh đời lính chiến

Cho máu xương không uổng phí ngày mai

Có sương khói từ mắt thầm cầu nguyện

Cho lỡ làng không chĩu nặng bờ vai

Người thản nhiên những tia nhìn cú vọ

Đây thịt xương còn sót lại một đời

Còn ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ

Dù rã rời nhưng vẫn thắm nụ cười

Ta nghe rực trong hồn trăm bó đuốc

Mặt trời lên xua tăm tối cho đời..”

Ở Sài Gòn năm 1980, là những ngày tôi cựa quậy trong nan lồng

Nghèo đói, bất công, đe dọa, bắt bớ, đủ thứ khổ nạn đổ lên đầu người dân nhất là những người được thả về từ trại tù. Mỗi ngày trình diện công an, rồi mỗi tuần , mỗi tháng nhưng áp lực thì càng ngày càng tăng. Tạm trú, từng tháng, từng ngày. Không có một chỗ nào ở thành phố cho các anh, người thua trận. Tôi, không có hộ khẩu, ở tạm trong nhà của mình. Rồi tham gia tổ chức vượt biên ở Bến Tre bị công an tỉnh này lên Sai Gòn tìm bắt . May là thoát được nên sau đó là phải sống lang thang đêm ngủ chỗ này tối ở chỗ khác. Những buổi tối trời mưa, đạp xe đi tìm chỗ tạm trú , mới thấy ngậm ngùi cho câu than thở trời đất bao la rộng lớn mà sao ta chẳng có chốn dung thân. Những buổi chiều nắng quái , đi trong thành phố, mới thấy cảm gíac của một kẻ cô đơn như con chuột đang cuống cuồng trong lồng giữa cơn mạt lộ. Thấy đi tới đâu cũng gặp những cặp mắt ngại ngùng của những người thân, từ chối thì không nỡ mà chứa chấp thì bị liên lụy nên tôi phải tìm một phương cách để cho qua đêm dài. Thuê phòng trọ hay khách sạn cực kỳ nguy hiểm , nên chỉ cómột cách là trà trộn vào những người ngủ ngoài đường . Lúc ấy , ở Sài gòn đầy những người ngủ ở hè phố, Họ là những người từ kinh tế mới về chịu không kham sự khổ cực hay những người vượt biên hụt trở về nhà bị chiếm. Mà chỗ an toàn nhất là bến xe Ngã Bảy. Ở đây là đường ranh của nhiều phường nên chỉ có một quãng ngắn, ở chỗ này bố ráp thì chỗ kia vẫn bình thường như không có gì xảy ra. Tôi có xem một video của trung tâm Asia có ghi lại hình ảnh của nhạc sĩ Trúc Phương cũng hoàn cảnh phải ra xa cảng để ngủ qua đêm mà chạnh lòng. Thì ra , ở lúc ấy , có nhiều người chung cảnh ngộ, phải lang thang ngủ đầu đường xó chợ một cách bất đắc dĩ. Bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt, công an lộng hành , bắt người không cần lý do , kinh tế thì lụn bại, ngăn sông cấm chợ, cả nước nghèo đói không đủ gạo ăn , kỹ nghệ trì trệ không sản xuất được gì đáng kể. Rồi chính sách phân biệt đối xử , giáo dục thì nhồi sọ , hồng nhiều hơn chuyên, thi cử tuyển chọn theo lý lịch hơn là thực tài, y tế thì thiếu thuốc men phương tiện và y sĩ trình độ kém lại làm việc tắc trách. Thật là một thời tệ mạt nhất trong lịch sử dân tọc ta.

Ngủ ở bến xe Ngã Bảy, mướn cái chiếu 1 đồng , kiếm một chỗ qua đêm , tôi đã chứng kiến nhiều chuyện. Có những bà mẹ góp nhóp tiền bạc đi thăm con ở một trại tù nào đó, chờ xe ba bốn ngày, sống lang thang lếch thếch chờ đợi. Cũng có những người không nhà, nằm la liệt dưới mái hiên, sinh sống ăn ngủ và làm tình một cách thản nhiên như đang sống trong nhà mình. Cũng có những trai tứ chiếng, những gái giang hồ quanh quẩn kiếm ăn. Những anh lơ xe, những chị buôn hàng chuyến, những mối tình, hừng hực xác thịt cứ diễn ra hàng đêm. Rồi những đêm mưa gió, ướt át, những tiếng chửi than trời trách đất cứ dòn dã . Hình như, ở gần nỗi khổ, tâm hồn họ bị chai sạn đi. Công an từ phường này qua phường kia luôn luôn bố ráp nhưng như một trò chơi cút bằt. Áo vàng mũ cối đi qua, chỉ ít lâu sau là đâu vẫn đấy .

“ .. hè phố rác lạc loài hoa dại

nở buồn tênh phiến gạch ngậm ngùi

cỏ đớn hèn hạt sầu kết trái

ươm bao năm dầu dãi nụ cười

ngủ chợp mắt đèn khuya vụn vỡ

ho khan ai quằn quại phổi khô

tiếng còi hú nhát đinh vỡ sọ

nghiến xe lăn tim nhịp chày vồ

rưng não tủy bầu trời tháng chạp

cành cỏ khô héo mãi phận mình

ở vu vơ ngỡ ngàng tiếng khóc

đêm bến xe tưởng chốn u minh

đường bảy nhánh chỗ nào phải lối

ngủ nơi đâu còi rúc giới nghiêm

như tiếng cú rúc trong huyệt tối

người lao xao cõi tạm cuồng điên

gío nhọn hoắt ngon lành da thịt

mưa giọt soi mộng dữ chân người

ánh đèn pin mắt ai tội nghiệp

bờ đá xanh lạnh buốt chăn đời..”

Ở một đất nước vào thời kỳ mà cây cột đèn nếu đi được cũng muốn vượt biển , thì còn con đường nào khác hơn là thách đố với định mệnh.

Những lần sửa soạn ra đi , tự nhủ hãy đi một vòng thành phố thân yêu để rồi vĩnh biệt không còn gặp lại. Những khúc sông , những cây cầu , những dãy phố , mỗi mỗi đều nhắc đến kỷ niệm và khi sắp sửa ra đi như mất mát một phần đời sống mình. Có buổi tối , đi trong mưa, để tưởng nhớ lại lúc xa xưa, khi bềnh bồng trong cảm giác lãng mạn của một người đi tìm vần thơ.

Mai ta đi xa. Thôi giã từ thành phố. Lòng đau như cắt trong lúc giã từ “ ta thắp nến đọc hoài trang sách kể

Chuyện người tù vượt ngục suốt một đời

Ta hùng hực cánh buồm chờ gió đẩy

Sống một ngày thêm thúc giục khôn nguôi

Đã đắp xóa bao lần cơn mộng biếc

đường phải đi cho đến lúc xuôi tay

sóng loạn cuồng con thuyền trôi biền biệt

giăng buồm lên phương viễn xứ một ngày

Ta cũng biết còn xa vùng đất hứa

Phải đi qua địa ngục chín mươi tầng

Đời hiện tại xích xiềng theu bão lửa

Nỗi niềm riêng còn khóe mắt thương thân

Đã thấm thía ngày qua ngày tù tội

Chim trong lồng mơ vùng vẫy trời cao

Cười khinh mạn những chão thừng buộc trói

Về phương đông nơi bến đỗ tay chào

Mộng ước mãi chiều nao vời cố quận

Chim sẻ ngoan còn ríu rít phố phường

Loài ác điểu vẫn gây căm tạo hận

Bẫy gai chông ngầm phục ở quê hương

Ta tin tưởng có quỉ thần dẫn lối

Dù giặc thù vây bủa cả không trung

Còn một chén nốc ngụm men vời vợi

Gió chuyển rồi thôi đến lúc lên đường

Chuyện sinh tử dỡn chơi thêm ván cuối

cạn láng rồi thử thách với phong ba

ngôi tinh đẩu dẫn ta về bến đợi

đường biển vẽ rối tay lái thẳng lối qua.”

Bây giờ, nhiều người trở lại nói thành phố đã đổi khác. Hết rồi, những con đường cũ, những ngõ hẻm xưa. Hết rồi, những tâm tình thuở nào, của một htời trong một đời người. Tôi, có lúc đọc những bài viết cũ, ngắm lại những hình ảnh xưa, lại nhói đau như vừa đánh mất một điều gì trân quí. Thôi vĩnh biệt sài Gòn, tiếng kêu thảng thốt của người vừa đánh mất một phần đời sống mình