Thứ Ba, 15 tháng 8, 2017

"...chở hết vàng son tới ủ ê" - (uẩn tình của một kẻ xa xứ) (Cao Đồng Khánh)

"Chiếc xe đò cũ hơn chùa miễu
Chở hết vàng son tới ủ ê" http://www.gio-o.com/thocaodongkhanh.html

Vàng son ... đến ủ ê...
Như tâm thế của (?!? năm) văn học biển-ngoài... 

Với (những) sự (cố gắng) tình cờ tôi "từng bước từng bước thầm"..."gom góp yêu thương...quê "người"... những tác phẩm gần như là tuyệt bản của một thời rực rỡ văn-học-hải-ngoại.

Nhìn lại từ vài tựa sách cho lần gom góp này cũng thấy một phần(nhỏ) câu chuyện dài của nền văn học tiếp nối 20 năm văn học miền Nam:

"Những cơn mưa trở về" để nhắc nhớ ngày "Lửa đốt ngoài giới hạn", biết bao người đã vượt Thuỷ Mộ Quan để rồi "Quê Nhà" chỉ còn là "Vùng thôn trang diễm ảo"... Từ đó những thuyền-nhân "khởi đi từ ngây thơ để đến gần sự thật",  từ "Mặt cát đảo nghìn năm gió thổi/ Bỗng Việt Nam từ một dấu chân người" cùng gầy dựng một Việt-Nam -bên-ngoài-Việt-Nam, 

Nhưng rồi vì quê nhà - quê người http://chiasenhac.vn/…/que-nha-que-nguoi~ngoc-lan~ts3md7vbq… thì "Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau"... "Ngựa nản chân bon" nên rồi "Âm vọng" còn lại từ "Bóng gẫy của thần tích" chỉ còn là một lời tâm ca:

"Ngày mai nếu trở về quê cũ. Hy vọng ta còn tiếng khóc chung"

huyvespa@gmail.com

20170809_IMG_7178 20170809_IMG_7179 20170809_IMG_7177 20170809_IMG_7176 20170809_IMG_7175 20170810_IMG_7193



20170815_IMG_7256 20170815_IMG_7257 20170815_IMG_7258 20170815_IMG_7259 20170815_IMG_7260 20170815_IMG_7261 20170815_IMG_7262 20170815_IMG_7263 20170815_IMG_7264 20170815_IMG_7265 20170815_IMG_7266 20170815_IMG_7267 20170815_IMG_7268 ./.

Tập thơ đã được scan, nếu anh/ chị/ các bạn cần file pdf xin gửi mail về cho tôi! Thanks!

Cao Đông Khánh, ngọn lửa cuồng của ngôn ngữ
- Nguyễn Vỵ Khanh - 

Thơ Cao Đông Khánh xuất hiện khi làn sóng thuyền nhân lên cao độ những năm 1980-1981, khi lương tâm nhân loại phải đương đầu với thảm kịch thuyền nhân Việt Nam. Thủ phạm đã rõ nhưng nạn nhân cũng đã quá nhiều, hàng trăm ngàn người trong số gần hai triệu thuyền nhân rời bỏ quê hương đã không bao giờ đến bến. Họ, những thảm kịch mà công luận quốc tế cuối cùng đã biết đến, đã nhìn thấy, họ đã bỏ mình nơi biển cả, trong rừng sâu, vì bạo lực, vì bất nhẫn của người đối với người,... Cao Đông Khánh là thuyền nhân, ông đã sống cái bi trạng đó và ông đã dùng thơ để lên tiếng, như Trường Ca Vượt Biển:

"như vậy đó, biển hàng ngày tăng trưởng
biển mọc trong đầu biển khắp tay chân
biển xót xa em từ cái răng cái tóc
con mỹ nhân ngư này tên gọi thuyền nhân"
(Tạm Dung, Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn, tr. 91)

"... em nói, chồng em chết tù cải tạo
những đứa con ngọc ngà chết ở biển đông
còn đứa trẻ khôi ngô này, sinh ở trại tị nạn
cha nó đang làm hải tặc Thái lan..."
(LĐNGH, tr. 164).

Đối với Cao Đông Khánh, biển đã trở nên cuộc đời, đã thành ám ảnh, nhà tù:

"... Để anh nhắc ngày anh ra biển
chặt một chân để lại làm tin
hãy xẻ khô cất làm lương thực
em ráng sống giùm anh nghe em
nghe đó em người làm nhân chứng
tình yêu này như hỏa diệm sơn
Để anh kể cho em tưởng tượng
một đêm, gió khô hết hơi thở
người chết dưới biển lên đảo viếng thăm ..."
(Đường Ngô Thị Tâm, LĐNGH tr. 100)

Bài Trường Ca Vượt Biển, ra mắt trên tạp chí Quê Hương tháng 1-1980, đã như một tiếng kêu thương nhức nhối. Nhưng rồi nhà thơ đã dành cho tình yêu một chỗ lớn, xuất bản Lịch Sử Tình Yêu năm 1981 (1) và 15 năm sau những thống khoái cuộc đời, đã trở lại với tuyển tập Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn (2). Tình-yêu được đặt trong hành trình cuộc đời một đời người Việt từng sống những thăng trầm của sinh mệnh đất nước và dân-tộc: đi lính, bị thương, du học Hoa-kỳ, hồi hương và ở lại với Việt-Nam, rồi làm thuyền nhân, sống hết mình đời lưu vong và sống trọn vẹn với văn-chương rồi vĩnh viễn ra đi vì bệnh tật.

Nhìn chung, thơ Cao Đông Khánh là một bản trường ca về của những thống khổ của thấu hiểu cuộc đời và chân lý giới hạn, cái tri của một người sống nhiều mà lịch lãm cũng lắm! Những trường ca của Cao Đông Khánh (như Anh Hùng Mạt Vận hay Di Tản America mỗi bài dài trên 200 câu) làm chúng tôi liên tưởng đến bài hành Khúc Đoạn Trường của Cao Vị Khanh (3), nhưng cái đớn đau của họ Cao sau hiền hòa nhẫn nhục hơn. Có thể vì méo mó nghề nghiệp gõ đầu trẻ chăng? Cao Đông Khánh "hét" lớn, liên lũy, với những lời lẽ rất thường nghe ở đầu đường, xóm chợ, những bộ chữ của chị bán chè hoặc anh hùng dao búa, những tay hảo hớn, xếp xòng hay dân nhậu nhẹt, lê la,... có lúc trơn tru, có lúc lại chát chúa và cả ồn ào! Dĩ nhiên cũng khác Kiệt Tấn, cũng bi hận nhưng thâm trầm hơn với trường thi Việt Nam Thương Khúc (4).

Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn gồm 15 chương thơ sáng tác trong hai thập niên, từ 1976 đến 1996, theo biến chuyển của các biến cố liên hệ đến Việt Nam. Như chuyện dài một người Việt ở những năm cuối một thế kỷ. Tập thơ nhiều thể loại, từ lục bát đến thơ văn xuôi, cách tân ở dụng thanh âm và ngôn từ sử-dụng của một Nam kỳ Lục-tỉnh bình dân nhưng có khi phù thủy mạnh mẽ như nước sông Cửu Long trước khi đổ ra biển: thơ Cao Đông Khánh viết để được đọc lên và được nghe, thơ tâm sự với người!

"sài gòn chợ lớn như mưa chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về xóm chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm giấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông?
sài gòn khánh hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiếng
ngã tư quốc tế đứng xàng xê
gánh nước nặng hơn vác thánh giá
má đỏ hình như rượu mới nồng..."
(Sàigòn Rồng Bay Phượng Múa, LĐNGH, tr.56).

Những con bạn hàng xuôi ngược, con bạn thời sinh tử, chiếc ghe bầu khẳm héo hon,... nghe như gần gũi mà như xa, như đã mất! Qua những địa danh là những chuyến du hành từ quá khứ, từ bên kia vùng ý thức, là những cuộc trốn chạy trong cơn lên sốt để khám phá ra rằng trần thế hãy còn sống động, lúc nguy nga lúc tàn tạ!

"... Nơi em ở đó lâm li tình ái, mà, em nỡ bỏ đi, không ai có thể hiểu nổi. Cái trái ô môi đậm đà hơn đường mật, cái thơm cái khóm ngọt ửng màu phèn, cái xe thổ mộ rềnh rang lục lạc, cái con nhỏ hồi xưa tóc cài hoa thiên lý, mà, lý em về dọn dẹp hồi xưa, dọn anh ra khỏi quốc gia, dọn Việt Nam ra hải phận quốc tế.

"Anh mang khối tình còn e lệ đi chu du.
"Trên núi mây ngũ sắc, ngoài biển gió mưa hòa thuận anh gầy lại miếng đất thân sinh, lập trang trại gia bảo. Anh chọn con ngựa trong mười hai con giáp, anh tra khớp bạc, anh thắng kiệu vàng, anh phi nước kiệu đưa nàng đi thăm cổ tích, có chiếc lá rơi biến thành chim vành khuyên đậu trên vai người hóa đau" (Bầy Ngựa Văn Hóa).

Những bất ngờ tình ý, hình ảnh. Quá khứ thơ mộng trộn lẫn hiện tại lưu vong:

"... sài gòn gia định em vô trước
qua ngã cầu bông mới tủi thân
chiếc xe đò cũ như chùa miễu
chở hết vàng son tới ủ ê..."
(LĐNGH, tr. 57)

Cao Đông Khánh làm thơ xuôi và thơ tự do, cái tự do phóng túng mà sinh động, xuôi chảy của những cái trục trặc cuộc đời - trục trặc tiếp nối nhau thành như xuôi chảy tự nhiên! Nhà thơ thổi vào những câu nói và chữ dùng của dân gian vùng Sài-Gòn và lục tỉnh, làm chúng sống động, có hồn ra, và có cá tính! Cao Đông Khánh có tài hà hơi, đem tinh khí đến chỗ chết chóc, ù lì, dung tục.

Ông có những chữ dùng mới của riêng ông: ngôi nhà cảnh thạnh, hoa cổ tích, miếng ăn tình tứ,... Cao Đông Khánh tân kỳ hóa cả thơ cũ, lời xưa, chữ dùng quen,.. thành của riêng Cao Đông Khánh! Tiếng vọng dân ca, ngày đã xa hay hôm nay anh nhìn ngắm người tình! Nói đến người đẹp:
"Nàng có chất rượu trong chiếc kẹo bọc chocolate, có đôi mắt tròn như biển xanh ở chính giữa trời mây trắng, có đôi chân khép nơi chỗ ngồi, hở nơi chàng nằm, có ngày thong dong như sóng nước, có đêm nhẹ như cánh diều bay, có kiểu đi chân không, có dáng mang guốc cao gót, có cách mặc áo dài, có điệu mặc quần jean,...

Lê thị Vân Nga như tiếng hát ngoài vô tận, nàng ở không gian ngoài, ngoài bất cứ mọi dèm pha; nàng ngây thơ đối với mưu lược, nàng trinh tiết trong đời tình; nàng thông minh trong định ý, (...). Nàng có thân thể của cỏ non mọc trên ngọn gió có cánh tay dịu dàng trổng tỉa văn minh.

(...) Tháng Bảy dài hơn hết, tháng Bảy nhớ thương hơn hết, tháng Bảy trời mưa ấp ủ hương hoàng lan. Tháng Bảy của nàng ẳm con về Đà Lạt, tháng Bảy chỉ có người đi mới hiểu vì sao. Tháng Bảy vì sao có một người biết hơn ai hết, những tháng Bảy trời cao trời thấy ra sao?" (Lời Thống Trách Của Kẻ Ở, tr. 61).

Người nữ, mà chân dung, diện mạo đã và sẽ đè nặng trên từng bước đi chu du của người lữ thứ, ở những thành phố dù xa lạ, cả khi mặt trời lên cao và biển mở rộng!

Thơ xuôi, thơ với lời thống trách, kể lể, thơ tính nằm ở âm hưởng của lời, ở âm vang của ý. Những lời tuôn, đi mãi, xa mãi,,,! Lời ẩn mật như để nói riêng, tâm sự riêng với người xa khuất. Nhà thơ sống chết với người đẹp, một người nữ nào đó ông đã phải thốt:

"... Anh cung kính biết bao nhiệt tình
thờ phụng thần tượng: Em
Người đàn bà lãng mạn cuối cùng của thế kỷ"
(Trăng Trong Vịnh Frisco)

Biển, nước,... vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong thơ Cao Đông Khánh, cả khi nhớ người tình:

"Đêm. Gió, Cây. Trời. Hồn nhiên
tình cờ ngọn lá quạt giọt nước nhẹ khắp
nơi nào cũng nhớ em như nhớ nhà
Nhớ em như nhớ nhà ..."
(Từ Nơi Yêu Dấu, LĐNGH, tr. 5)

Tình yêu đi với tình quê hương và thân phận lưu đày. Lời thú "Anh nhớ em như nhớ nhà em ơi". Còn bi ai nào hơn! Cả khi đi vào hết bài thơ với những nhung nhơ,ù những chi tiết tình ái tầm thường đã làm nên hạnh phúc hay đau khổ tiếc nuối "Cố nhiên điều anh nói chẳng ai tin, kể cả, khi em lang chạ với người đàn ông đó cùng một kiểu như với anh...".

Cuộc đời với những trận cười bên chai rượu, với những tiếng súng trận địa, với những con người bày vẽ nhân đạo,...

"mới chín tới chia hơi cần sa tâm huyết
mùa hè 70 máu chảy đỏ hòa bình
em ở Berkerley hay ở Massachussetts
thuở xuân thì cổ võ kẻ xâm lăng .." (tr. 130).

Cao Đông Khánh làm thơ như say sóng vô tận với rượu nồng và thuốc lá Bastos xanh

"như cá nước ngọt theo cuồng lưu ra biển
tìm về bất kể nơi nào hợp thức tâm cơ..."
(LĐNGH, tr. 85).

"... ta chia sớt với em một gian phòng khách
ta đeo tượng phật cười em đeo chúa đóng đinh
em pha tách cà phê ta đốt điếu thuốc cuối
trong cái gạt tàn đầy tro bụi riêng "
(LĐNGH, tr. 298).

Nhà thơ sống tận cùng cuộc đời, dan díu với từng nét riêng, từng nét thấp. Sống bình dân để viết nên những lời quần chúng cận nhân tình đọng chất thơ. Bóng cuộc đời xô bồ, ồn ào dàn trãi trên những ý thơ, thứ thơ từ cõi sống đi ra và sẽ trở về nơi ô trọc. Đời, với Cao Đông Khánh, là một trò chơi lớn, nơi đó có rủi may định mệnh, có con người, có tình yêu và cái chết!

Cao Đông Khánh như muốn tạo một ngôn ngữ thơ mới, đặc biệt của riêng Cao Đông Khánh, ngôn ngữ đặt thơ ở chân tường những ảo tưởng và son phấn, là đi vào lòng cuộc phiêu du lớn, là để cho tiếng nói phát biểu bí ẩn riêng của chúng. Với hai tập thơ đã xuất bản, người thưởng thức thơ phải đối đầu với một thi ca muốn cuộc đời chiến thắng bởi tàn khốc của cái chết. Thơ Cao Đông Khánh không phải là văn chương mà trước hết đã là Ngôn Ngữ và Tiếng Nói. Thật vậy, người đọc thường phải đương đầu với một ngôn ngữ quá đà, thô tục, một ngôn ngữ tuyệt vọng nảy sinh tiếng cười khinh mạn, châm biếm; những thành ngữ bẻ cong bẻ ngược như tiếng lóng trao đổi ở đầu đường "vô nghĩa". Dùng tiếng nói để cụ thể tiếng lòng của người thơ, để đến với người thưởng thức thơ. Thơ đưa người đến gần nhau, đẩy người tâm sự và cả âu yếm với người. Hoa gấm đã là quá khứ, vậy sử-dụng những tầm thường mà sinh động, để vang lên tiếng vọng từ tâm thức nhà thơ. Thơ Cao Đông Khánh phải đọc lớn tiếng và nếu được, trước người khác, hình như mới hay, vì với Cao Đông Khánh, ý của ngôn ngữ chính là ở ý của lời nói. "... Bài thơ bỗng rưng rưng / lời mặc khải viết xuống thành chữ / chữ hiện hình xinh đẹp " (LĐNGH, tr. 289). Mỗi bài thơ là một chuyến đi chơi xa trong tiếng nói. Với chiếc xe tùy thân, chuyến đi xa mỗi người làm lấy ngay trong chính thân xác không bất tử của chính mình! Thành thử hay ở ngoài, như "tiếng hát ngoài vô tận, nàng ở không gian ngoài, ngoài bất cứ mọi dèm pha", như lửa đốt ngoài giới hạn!

"Những chuyến xe vẽ hoa chở chuyên ân ái
trên gò má em xâm một cánh hoa hồng
chiếc Volkswagen đời 60 có hình nữ phận
chở trăng vào soi cửa giữa giai nhân"
(LĐNGH, tr. 130).

"Ra mắt đời sống, anh bước vào hầm rượu mịt mù khói thuốc, nhớ đêm mùa thu lá rụng trong sân trường đại học như bước chân của đám âm binh bước vào thư viện sắp xếp lại kệ sách, nhồi thuốc súng vào mẫu tự rồi chạy táo bạo lộn xộn trong ký túc xá, sử dụng đủ loại nhạc khí khiến cho trái tim em đập theo những nhịp dồn dập, rớt ra khỏi lồng ngực, còn lại, cặp vú mỹ miều bơ vơ; anh say gục xuống" (LĐNGH, tr. 172).

"... Chiều trổ mây âm dương
Khuya ngạc môi son những mặt trời đàn bà
Em phù dung mở cửa. Để đẻ
Cho sướng chỗ em buồn..."
(Trăng Trong Vịnh Frisco).

Ở Cao Đông Khánh có ẩn ngữ của cuộc đời mới, sau những khổ ải vượt biển, vượt biên, nay hiện diện ở khắp Americas. Đời như một trò chơi vừa khốn kiếp vừa bi hài. "... Tháng 6 trên bãi biển nắng mưa tôi làm người ngoại quốc, tôi nói Anh ngữ với người bản xứ rất vui. Người ta hãm hiếp đàn bà của tôi, thử cho biết mùi trái cây lạ... " (LĐNGH tr. 118).

Những lời những chữ mà nhiều người đọc không chấp nhận là thi ca, lên tiếng phản đối ồn ào một thời, thời họ Cao xuất hiện trên trường thơ hải ngoại. Họ nhân danh một truyền thống, một "văn hóa" đã quen!

"...Trên nóc cao ốc trùng trùng đàn ông. Chót vót
điệp điệp đàn bà. Cái Lớn. Cái Bé
Những bái vật muôn năm nằm trong gốc gác con người
Cái Răng. Cái Tóc. Cái Lồn. Cái Hồn Vía còn tươi
Kẻ di tản đã ra khỏi đường chân biển
Và bao nhiêu đường chân trời. Không ai nhớ rõ
Đi hết ánh sáng. Đốt lửa ngoài giới hạn..."
(Cánh Đồng Trầm Thủy. LĐNGH, tr. 311)

Ở những chỗ Cao Đông Khánh dâm hóa con chữ, ngôn ngữ trở thành không gian nơi đó nhà thơ vật lộn đê mê với xác phàm, như cái khoái lạc chiếm hữu thân thể người nữ. Ở đây người nữ đồng nghĩa với thơ, cả hai chia xẻ ảo tưởng và ám ảnh của nhục dục, cái giác cảm đối đầu với quá quắt là cái đem lại sự sống hoặc chết. Thành thử nhà thơ như không có lựa chọn nào khác là chụp lấy cái Chân lý từ thân xác, là dựng nên một vở kịch nơi đó ngôn ngữ đến gần tiếng hò hét. Thơ với người nữ làm một, từ hơi thở, mùi vị đến cả thịt da, cử động. Khoái lạc nhục dục của con chữ trong những hành cử yêu, ghét, làm tình,... và thơ bị tàn sát khiến phải kêu lên rằng đang chết trong khoái lạc. Nhà thơ thu nhỏ thi ca lại trong sự thật trần truồng khi đối đầu chúng với cái chết! Phải chăng đó là lý do những phê phán Cao Đông Khánh "tàn diệt" ngôn ngữ thi ca?

Văn chương nói rốt cùng là ở trong cách thể hiện, cái cách xuất phát từ cái tay hay cái đầu hoặc con tim? Cái tay là cơ quan hành pháp của ngôn ngữ, cơ quan khích động và đòi hỏi hành động! Với Cao Đông Khánh, thơ thành công khi khiến người đọc thơ cảm nhận có bàn tay đó, có cú đấm, làm chết, làm động lên khiến nhạc tính xuất hiện và con tim bị động! Thơ ông động đến bàn tay, và đòi hỏi hành cử, dù tâm sự lúc đó nhão mềm. Bàn tay để đụng chạm và nắm bắt. Đụng chạm dưới nhiều hình thức từ chạm đằu ngón đến vuốt ve mơn trớn, mong hoán đổi nhịp con tim. Nắm bắt vì chạm đến tột cùng của ý thức, của cảm giác. Thơ với Cao Đông Khánh là chất men say con người, một thứ "hữu thể" dễ bốc hơi từ hiện sinh và thân xác, là hơi thở của "ngôi nhà nhẹ nhẫng", của thể chất cõi đất, tức là chính mỗi con người. Qua lời, qua tiếng nói, người thơ hiện hữu. Ngôn ngữ lại có bộ nhớ dù chúng luôn chạy trốn, luôn chảy, bay mất. Lời thơ chen lấn trong tôi và bản chân diện mục tôi, giữa tôi và thế giới, giữa tôi và người khác. Thi cách cũng là một biểu hiệu nhân sinh quan, với Cao Đông Khánh thì đã quá rõ!

Và Cao Đông Khánh đã mở đầu một trong những bài thơ sau cùng:

"Hắn đã đến. Đã ở. Đã đi
Trống thêm một chỗ trống..."
(Trăng Trong Vịnh Frisco)

Chú-thích

1.  Cao Đông Khánh. Lịch Sử Tình Yêu. Garden Grove, CA: Nhân Chứng, 1981. 136 tr.
2.  Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn: thơ tuyển chọn từ 1976-1996 của 1 người là Cao Đông Khánh. Houston, TX: Tác giả xb, 1996. 314 tr. Phần lớn của tập Lịch Sử Tình Yêuđược in lại trong tuyển tập mới này.
3.  Cao Vị Khanh. Lệ Từ Nét Ngang. South Boundbrook NJ: Thư Ấn-quán, 2001. Khúc Đoạn Trường (tr. 11-68), viết theo thể song thất lục bát, 155 đoạn 4 câu.
4.  Kiệt Tấn. Việt Nam Thương Khúc. Paris: An Tiêm, 1999. 144 tr. Gồm 3100 câu.





















(HQ)





Về ông anh thi sĩ

- Cao Đồng Thạnh -

"Mầy giống thằng Khánh thiệt chớ".
"Tụi em rất quí anh Khánh, nên tụi em cũng rất quí anh như anh Khánh vậy".

Anh em- bạn bè anh Khánh hay chào đón tôi như vậỵ

Thưa, tôi là em anh Khánh tên Cao Đồng Thạnh. Gia tài anh Khánh để lại cho tôi là tình bạn của những người bạn rất bao dung và thành thật vô cùng. Để tưởng niệm anh Khánh, tôi xin kể lại vài sắc thái về cuộc đời của ông anh, trong giới hạn hiểu biết của tôi.

Anh Khánh mắc nợ làm thơ từ hồi mới chập chững vào đời. Lúc đó anh vừa làm thơ mà còn đánh lộn. Còn tôi hễ nghe thằng nào đập ông anh là đi kiếm để trả thù. Tôi còn nhớ là mới vào khoảng đệ lục hay đệ ngũ gì đó, tôi đã nghe anh Khánh ngâm nga những bài thơ của Bùi Giáng, văn Nguyễn Sĩ Tế, rồi tới Nguyên Sa, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, T.T-Kh, Tô Thùy Yên, v . . v .

Trong tập thơ Lửa Đốt Ngoài Giới Hạn đã xuất bản, có một bài cho ta thấy vài vận điệu theo lối thơ -- mà tôi nghĩ là -- của Bùi Giáng. Đó là bài "Hồng Hạnh":
    hồn em như tranh sơn mài
    vào trong ánh sáng mang hài đi ra
    hồn anh như đom đóm xa
    ra ngoài bóng tối mang hoa đi vào

    sao giăng chín ngọt nhánh trời
    sông trăng vàng thếp tuyệt vời quê hương
Đây là một trong vài bài đầu tiên mà hình như tôi hay nghe anh Khánh ngâm nga từ hồi còn nhỏ.
    "sông trăng vàng thếp tuyệt vời quê hương"
là cảnh sông An Phú Đông dưới ánh trăng vào thời chiến tranh chưa bùng nổ.
    "sao giăng chín ngọt nhánh trời"
là hình ảnh của những trái cam, trái quít chín vàng trên cành. Nếu mình nằm dưới tàng cây nhìn lên khi chiều xuống, thì tàng cây chìm dần vào khung trời đêm, còn trái cây chín vàng trên cành lóng ánh trong ánh nắng chiều sẽ biến dần thành sao giăng chín ngọt trên nhánh trời.

Qua tia sáng chập chờn của con đom đóm trong bóng đêm, anh Khánh đã ghi nhận được vài nét tinh hoa của quê hương trong tình thương quê ngoại, tức là làng An Phú Đông với dòng sông lượn quanh qua vườn cây sai trái trong ánh trăng vàng.
    "hồn anh như đom đóm xa
    ra ngoài bóng tối mang hoa đi vào"
Anh Khánh đã tự ví mình chỉ như một con đom đóm chập chờn đi tìm tinh hoa cuộc đời mập mờ trong đêm tối. Thành ra, trong cái tăm tối thuở thiếu thời, quê hương anh Khánh ghi lại chỉ vài nét chấm phá rất đơn sơ - đó là quê ngoại An Phú Đông và bà chị Cao Hồng Hạnh.

Bà chị trong tuổi dậy thì, bốn thằng em thằng nào cũng thương. Nhớ lại bà chị của tôi thì lúc nào bả cũng trong sáng, ẻo lả như thiếu nữ lóng lánh trên tranh sơn mài.
    "hồn em như tranh sơn mài
    ào trong ánh sáng mang hài đi ra"
Đối với anh Khánh, thì hễ ai là phái nữ đều là em hết, chị cũng thành em luôn.

Anh Khánh qua Mỹ vào khoảng cuối năm 1966. Trở về Việt Nam năm 1972. Trở qua Mỹ tị nạn khoảng năm 79-80. Đêm anh Khánh đến từ trại tị nạn, tôi ra rước anh Khánh ở phi trường John-Wayne. Ảnh bước xuống máy bay thì chiếc dép bên mặt bị đứt quai. Ảnh tháo bỏ luôn chiếc bên trái, rồi đi chân không lên xe về nhà.
Tôi bảo ảnh đi nghỉ cho khỏe thì ảnh nói: "Không cần, tao ngủ trên máy bay rồị Mầy làm cho tao một ly cà phê đi." Hai anh em nằm nói chuyện luôn tới sáng.

Cũng nhờ đêm đó, tôi mới biết được rằng cái tia sáng mập mờ của con đom đóm ngày xưa đã trở thành ánh sánh rực rỡ. Nhưng lạ là, cái rực rỡ nầy không phải chói chang, mà nó làm cho người đối diện tự nhiên cảm thấy thanh thản, an toàn. Tôi rất ngỡ ngàng, lúc đó, khi nhận thấy ông anh của tôi có được một khả năng trở nên quá ung dung và khả năng phát biểu rất chân thành, không thể tưởng tượng được.

Ảnh kể cho tôi nghe một hôm, hồi bị Cộng Sản cấm cố trong chuồng cọp, "Tự nhiên trong đầu tao sáng rực lên, rồi thì toàn thân tao trở nên nhẹ nhàng thoải mái vô cùng ... bao nhiêu uất ức, bao nhiêu hận thù đều thoát ra khỏi ruột gan, dồn lên đầu, rồi tan biến đi đâu hết." Tôi chợt nghĩ anh Khánh là một trong vài người có thể đã thấu đáo được lòng từ bi hỉ xả của Phật.

Từ đó, tôi bắt đầu chăm chú để rán hiểu những bài thơ của ảnh đưa cho tôi coị Rất lý thú đối với tôi là bài "Tháng Mười Ba." Tại sao lại là tháng mười ba? Hay là ổng muốn nói về tháng mười ba trong một năm nhuần theo âm lịch? Không phải đâu, vì ảnh đã xác định là "Nguyệt ngoài khuyạ Dương li.ch. Gió phong phanh"

Nếu mà không phải là cái tháng mười ba âm lịch, thì thưa ông thầy, vậy chớ cái tháng mười ba gì đây?

Ảnh trả lời như thế nầy:
    một tháng nữa em đặt tên tình ái
    từng thước cây trên ngàn thước núi non
    một tháng trọn vẹn chu kỳ kinh nguyệt
    một tháng. Ở ngoài 12 tháng niêm phong
À, thì ra đó là cái tháng mà em gọi tên là tình ái. Lẽ dĩ nhiên cái tháng tên tình ái, ngoài giới hạn lịch lý nầy, không thể đo lường được bằng thời tiết và mùa màng nhưng bằng cây thước của anh trên ngàn núi non của em. Và dĩ nhiên công cuộc đo lường nầy sẽ biến chuyển theo chu kỳ kinh nguyệt của em. Thành ra, anh chàng đo thời gian theo kiểu nầy đôi khi cũng không khỏi bồi hồi, lo lắng ngắm nghía lại cây thước của mình, không biết nó có còn hiệu nghiệm hay không. Nên anh ta mới tự hỏi:
    thế 'thì' cây có giữ 'được' nguyên hình nhựa chảy
    thiên địa hao mòn lý lục có sao không?
Thực ra cũng không có gì khó hiểu; thiên là đầu và ngực, địa là cổ và bụng đi xuống. Thành thử, thiên địa là thân thể của mình - lỡ nó có hao mòn thì lý lục - nghĩa là lúc lỵ - có sao không?

Nếu mà chúng ta dám bước ra ngoài giới hạn như kiểu anh Khánh, thì quả nhiên sự phân chia giữa khoa học và thơ văn không còn nữa. Vì thời gian là một bằng chứng tương đối - tùy theo bối cảnh của sự đo lường - nghĩa là hoặc từ bên trong, trên cơ thể của mình, hay là từ bên ngoài theo đổi thay của thời tiết. Chúng ta thường trừu tượng hóa cái quan niệm nhân sinh là tượng hình của vũ trụ, như đối với anh Khánh, thì rõ ràng cái quan niệm nầy không có gì là trừu tượng hết, và rất ư là thực tế vô cùng.

Đến đây, thằng em nầy xin thưa với anh. Xin anh yên lòng về với vũ tru.. Anh đã quá lận đận vì phải cặm cụi, miệt mài đốt lửa ngoài giới hạn để soi sáng tình đồng loại trên thế gian nầỵ Sứ mạng của anh sẽ phải hoàn tất, vì còn tụi em. Anh em bạn bè rồi đây cũng sẽ gặp lại nhau trong vũ trụ đó -- ngoài kia.





















MÔT CHIỀU ÊM


RỪNG TRONG THÀNH PHỐ


NGÕ VẮNG












Những Vương Quốc Tân Khai

con trốt anh chị mưa như rút ruột
hoa nở bề ngang nhan sắc khai trương
mỗi người thủ sẵn một bộ dạng dã thú
mùa này ở Paris em mặc áo lông
thị xã của tôi sâu trong thung lũng
đại thọ hùng hồn che kín dấu dân sinh
thành phố của em ở ngoài trời đất
con đường viếng thăm xa mấy trăm năm
những chuyến xe vẽ hoa chở chuyên ân ái
trên gò má em xâm một cánh hoa hồng
chiếc Volkswagen đời 60 có hình nữ phận
chở trăng vào soi cửa giữa giai nhân
môi chín tới chia hơi cần sa tâm huyết
mùa hè 70 máu chảy đỏ hoà bình
em ở Berkeley hay Massachussets
thuở xuân thì cổ võ kẻ xâm lăng
tôi sống bằng ơn nghĩa trên hành lang của những chiều gió
gió ở chiều cao hay gió ở chiều sâu
ở cửa giữa em thế nào cũng tiện
hay nặng ở bề ngoài nhẹ ở bề trong
đầu tháng này bắt đầu Dương Lịch
cuối tháng sau Âm Lịch bắt đầu
khoảng cách thời gian là miếng đất di tản
trồng rau tứ thời Cung Chúc Tân Xuân
xưa có kẻ chết hai lần giữa biển
một giấy khai từ ở Việt Nam một giấy khai từ ở Indonesia
nhưng một bữa trên bờ duyên hải của Thế Giới
có một người từ biển dấy lên
ở giữa chết và sống ở giữa Âm Lịch và Dương Lịch
ở giữa cửa bùa mê hay ở giữa cửa hồng nhan ?
em cứ hỏi tôi những điều mê hoặc
thấy được gì trong trí nhớ tương lai ?
trong trí nhớ có bốn mùa da thịt
thêm một mùa làm lễ tấn phong
trên Vương Quốc Tình Yêu 365 ngày mỹ nữ
nhưng ngày nào trẫm cũng nhớ ái khanh 

Di Tản America

Tôi sống đầm ấm với những điều không giải thích được
thành phố hao mòn như trái tim của ngôi sao quạnh hiu
blue bonnet nở trong tầm mắt âu yếm
những mặt trời xanh dương giữa Dalass với Houston
Ở giữa hết thảy có ngôi nhà vách đất
con gái da nâu trong thung lũng xương rồng
những rừng lộng trong những rừng cát nóng
những mắt màu lá cây như những đại dương
Trời đất xa hơn chiều cao tưởng tượng
mô phỏng đời người duyên nợ truân chuyên
một hôm đại hãn vượt trùng vây ra biển
ở biển tôi vào chẳng thấy được bao dung
Thời tiết chật hơn chiều sâu trí nhớ
vượt ngục vượt biên vượt biển xuyên bang
khuya hôm đó có người bị xử tử
để cho người sống sót, chết không yên
Chữ nghĩa là ánh sáng của mặt trăng ngoại quốc
nàng trắng như giá băng, nàng ấm như trái chín cây
con ngựa của thế kỷ trước chở tình vào lịch sử
chở công nương đi dạ vũ trá hình
Thời trang mới nhất trên những hình nộm cổ điển
thành phố mọc mau hơn những chuyến đi
di tản America, cho phép định cư trong trại cải tạo
mới thấy được ngôi nhà giữa biển của tôi
Tản cư America vào trại tập trung da đỏ
thỉnh thoảng trên những con đường mòn nước mắt về Oklahoma
Những đêm ân ái trên hàng vạn mặt hồ băng giá
dấu vết chỗ nằm như bóng chim bay
Di tản America vào tâm tình xườn xám
tiểu thư Đài Loan hàm tiếu khai hoa
con cá lý hóa rồng về lục địa
chén mai quế lộ sầu tư trong ghế thủy triều
Di tản hết thảy lên trời, di tản hết thảy xuống nước
thơ tôi phát hành trên bản vị tình yêu
theo dấu nhụy hoa trong hành lang quốc tế
tìm em mơ hồ nở ngát cánh phù dung
Tôi định liệu có thêm một đời sống
xây một ngôi nhà trên đất Việt Nam
trên đỉnh Trường Sơn ngó trùng dương vọng nguyệt
nguyệt của em tròn như nguyệt đời xưa
Từ California tôi trùng tu cảm tưởng
thời cuộc trong hành trang như những ý kiến dị kỳ
tro cốt của tráng sĩ Apaches thành phượng hoàng u hiển
theo dấu chân sư tử núi lên ngàn
Mũi tên vượt bực bay vào tuyệt tích
những hoài nghi cũng giống như những mơ hồ
những kẻ uống nước sông Hassayampa quên hết nói thật
quên hết mơ hồ quên sạch hoài nghi
Hôm tôi đến nàng mời về hang động
hàng nghìn cánh dơi qủy lộng truyền kỳ
những hình tượng khắc trên đá nghe chừng lay chuyển
thành bướm hoàng hoa bay khỏi vô cùng
Dấu hiệu của thế kỷ trên cao nghìn thước
trên nghìn thước cao thành phố dát vàng
rã ngũ ở Đông Dương tôi đi tìm công chính
vương giả thuộc về người thất thế sa cơ
Chỗ ở của Buffalo Bill có chỗ tận tuyệt
núi ngợp đất trời tuyết trắng nóc không trung
có người thiếu nữ như hoa của rau cải
đợi chờ ai trên đỉnh ngất mưa dầm
Từ những hoang tàn về rừng cẩm thạch
nàng Calamity Jane mở tiệc giữa sơn lâm
con đường trở lại đi suốt đời không hết
động đậy trầm hương của gái biên cương
Trời đất thật trong như hạt kim cương xuất sắc
từ cả dặm xa nàng liếc mắt đưa tình
chàng kỵ mã hào hoa ghé qua rồi biệt dạng
cả đời sau ngóng đợi khôn nguôi
Người đó đi về lãnh địa của dân Sioux và Cheyenne đời trước
trên vách băng sơn còn rõ bóng chim sa
cổ tích, cổ vật, cổ sinh đều hoá đá
trên môi nhân tình khuyết sử vẫn chưa phai
Người đó trầm tư trong vùng đất sét màu biếc
múa hát trên vỉa hè tráng bạc của thành phố Virginia
con sông rắn uốn mình qua thung lũng địa ngục
lên hỏa diệm hồ tắm nước xanh dương
Ngó đủ chỗ thấy trùng trùng sơn cước
đón mặt trời xuống núi hỏi thăm nhau
khi những mỏ vàng khánh kiệt nàng bỏ thành phố
còn lại một người sống với gái liêu trai
Khuya ngọt lịm trong thâm cung hàn mật
Thiếp về Salt Lake City ăn ở đề huề
trong tổ ong mỹ nữ bần đạo xưng giáo chủ
trồng cánh hồng nhan trên mặt nước mặn nồng
Người bị tình phụ theo trường giang trầm bổng
những lưu lượng của nhụy hoa thơm ngát vòng lưng
những nhánh sông phấn hồng những ái ân biệt xứ
những e lệ mê man trong đáy mắt ngọc lam
Kẻ phụ tình tìm gì ngoài thân thế
nhạc Jazz chín mùi những mặt trời mun
ngày thứ ba mập, thứ ba béo, thứ ba đại hội
mặt thú trên hình người khiêu vũ như mê
Ngược giòng Missisippi chọn mua nô lệ
nàng múa hát cho mặt trăng còn xanh lá cây
những đồn điền bông gòn, những vườn hoa trái, những ruộng lúa mạch
những đời tư bỏ mất mấy trăm năm
Những khuôn mặt vĩ nhân khắc trên vách núi
động vọng từ tâm của lượng đất trời
những chuyến tàu hơi nước chở đầy huyền ảo
còn lặp lại đời đời cho mỗi một giấc mơ
Thôn nữ Arkansas tắm suối nước nóng
ấm áp tấm lòng mỹ nghệ thủ công
những hạt mưa gia truyền những ngón tay ngôn hạnh
đón đưa người nhạc sĩ từ Tennessee
Khúc ca lộng lẫy trên mặt cẩm thạch
câu chuyện tâm tình vang động Nashville
những mạch nước ngầm dậy sóng trong thân thể
những binh đoàn chí nguyện qua sông
những đường chiến tuyến thành sẹo trên thân thể
món nợ ân tình khi nào trả cho nhau
con ngựa sút chuồng chạy mê vô cỏ biếc
chạy mơ màng theo ám ảnh quang vinh
Trên mặt hồ Erie hai đứa bách bộ
lương thực nước non trong thung lũng trữ tình
những ngày triễn lãm trái cây những buổi hội hè của bầu bì
hơi thở trùng dương trong giấc mộng sông hồ
Người hoa khôi da đen lội qua ngân hà lánh nạn
trồng giống táo của Jonny trên tuyết đóng băng
đại hội tháng chín ở Indianna còn đồng vọng
ngàn lời cám ơn trong điệp khúc tạ từ
Trên đỉnh ngất trời nhảy xuống Wisconsin tắm gội
những hạt nước nở bung từ trọng điểm tiều phu
rơi xuống thành ra vạn mặt hồ óng ánh
thành ra tấm tình ở với dương gian
Cầu Mackinac kết hai miền duyên nợ
trên dưới thân nhân man mác thủy triều
hoa tulip bập bềnh theo tiếng guốc cuối ngõ
những gòong tàu hoả ngày xưa chờ miếng thịt thời nay
Mỗi đêm một hoàng hậu trong cánh tay cự phách
rượu lậu từ Detroit chảy xuống Chicago
miếng hambuger McDonald trở thành miếng ăn tình tứ
thành phố nặng nề hồn khi nàng ngủ quên chiêm bao
Mắt Bắc Băng Dương môi hồng Địa Trung Hải
da sữa tươi áo kim tuyến rạng ngời
say đắm như rượu bia, mặn mà như phó mát
em hứa với chàng xuôi ngược có nhau
Thằng cha làm ảo thuật hoá nàng thành người khác
trong gánh xiếc trần gian nàng biểu diễn ước mơ
em đu bay trở về những vàng son cũ
với nhân vật bây giờ trong đó không có tôi
Dân gió nồm ở nhà tranh vách đất
hoa hướng dương ngất ngây trên gò uỗn chung tình
dũng sĩ da đỏ phục kích bắt linh vật
hội họp đời nay trong bộ lạc cổ truyền
Gái nhà quê hồng trên vùng đất thịt
có một vành môi ấm dưới dạ sơn hà
nước màu thủy ngân trong tiểu bang bắt đầu
tâm phế thanh xuân rực rỡ mặt trời
Nàng bộc phát như giòng Mississippi khởi nghĩa
khởi ngàn trùng qua lục địa về Nam
phụ nữ sông hồ mê d-ời hồ hải
xuống California gá nghĩa với Đông Dương
Di tản nhiệt đới vào Alaska vắng bóng
mặt trời nửa -dêm như dao cắt trong xương
-dàn cá Salmon kéo nhau về nguyên quán
thân xác đỏ tươi trong dạ vàng ròng
Nàng ở gần trời ngó xuống khu vực hầm mỏ
trái táo vàng tươi như nắng thượng du
người nữ điệp viên bên đàn cá nước ngọt
nước trắng trời trong sống chết cho tình yêu
Trong vùng mộ địa của chiến sĩ vô danh tôi học làm tổng thống
vào Pentagon theo kế hoạch ly kỳ
rút về miệt đầm lầy lập tổng hành dinh thế giới
trong rừng anh -dào có sinh lộ u linh
Sắt thép che chở để tôi lập hiến
đứa con đầu lòng quên biển nặng bao nhiêu
tôi chọn lựa nhân tình mới của Philadelphia cổ hũ
hẹn gặp ở ngã tư đường Coca hay Chocolat
Vào Nữu Ước chọn chỗ ngồi chúa tể
vào trường West Point giảng dạy lương tâm
tuyết rã tan trên bàn tay sáu núi
ngón thứ sáu dành riêng để chứng khóan ái tình
Trái táo lớn dành cho Âu Châu đã rõ
trả hết ám ảnh tự do cho những hình tượng tây phương
công chúa Bạch Tuyết trở về nguyên xứ
trả lại linh hồn cho Superman
Những trang trại sữa tươi trong những thị trấn xinh xắn
những mặt trời ngọc ân trên lá thu phong
sơn nữ của núi diệp lục
lấp lánh trong rừng sương mù của Frost
giống ngựa Morgan chở trắng xuống trần gian
Trên đỉnh tuyết sơn có một dã nhân râu bạc
đời thái bình bên chén rượu tiều phu
theo chân người tuyê't đến hồ Winnipesaukee nghị luận
trời đất trầm tư trong đời sống nhỏ nhoi
Chuyến May Flower đổ người lên đất mới
bữa tiệc trà ở Boston khởi sự kỳ công
ddàn bà nhỏ bé như dâu cranberry chín tới
bên mỗi giòng sông là mỗi tư tình
ddàn ông của Connecticut xẻ trời lấp biển
sống chết một đời không đủ cho quê hương
những thông tín viên của hoài vọng những tiềm thủy đỉnh của ân ái
phân phát vô cùng bảo hiểm tương lai
Tôi độc lập về Rhode Island khởi nghiệp
xây ngôi biệt thự quang minh bên giòng sông đá đen
ở đó có nàng như một lãnh địa bé nhỏ
có con gà -dỏ tươi có trái táo hồng hào
Tôi gởi ra ngoài bằng đường dây tín điện
những đời tư đóng hộp đã trăm năm
chuyện chính trị quẩn quanh nói một lời cũng đủ
vọng ngữ trùng trùng trong trí tuệ cô đơn
Ở tiểu bang kim cương có thủ đô hóa chất
mái to'c hoàng hôn đổi dạng thay hình
trong vịnh Chesapeake thì thầm bên gối
những kẻ giang hồ còn mặn Đại Tây Dương
Nơi tiền tuyến ái tình, thua sạch sản nghiệp
hoa hậu về khuya cá lặn chim sa
lá thư tuyệt mạng đế trong phòng khánh tiết
sợi dây đàn treo xác Edgar Allen Poe
Đất duyên hải sạch dấu chân thuộc địa
rừng núi măng tơ trọn vẹn tấm thân nàng
những kho tàng châu báu dấu trong giai thoại hải tặc
những đồn điền thuốc lá ngạt đời sau
Bãi biến tuổi trẻ no nắng sinh lực
chỗ kín của hồng nhan phảng phất cánh phong lan
từ những vườn xoài tròn trịa nàng đưa tôi ngoạn cảnh
dưới công viên trầm thủy mê hồn
nhựa của cây phong ngọt hơn đường mật
kẻ thám hiểm miền Tây đã ra biển Thái Bình
những thần thoại mới khóa cửa Tân Thế Giới
những định ước nhân quyền trên môi miếng ngoại giao
Nàng thắm tươi trong cánh tay người máy
nhan sắc kỳ công mang bí số truyền thông
miếng ăn cắp tốc nuôi mối tình nhân tạo
cảm xúc phi hành thám hiểm tương lai
Dọn thế kỷ qua những hành tinh nghiệp chướng
dọn ngày nay vô bảo tàng viện quốc gia
trận mây thời sự đổ cơn mưa dã sử
trên mặt truyền hình quảng cáo tình yêu
Di tản năm mươi tiểu bang đi bốn phương tám hướng
sót chút trữ tình tôi gói lại tặng em
bữa tiệc viễn quy em chưa quên e lệ
hai đứa tụi mình nói tiếng Việt Nam

rồng bay phượng múa

tặng Nguyễn Lập Đông
Sàigòn Chợ Lớn mưa như chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về Xóm Chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm dấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông
Sàigòn Khánh Hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiến
Ngã Tư Quốc Tế đứng xàng xê
gánh nước nặng hơn vác thánh giá
má đỏ hình như rượu mới nồng
em nhớ giăng mùng khi xế bóng
kéo đời đưa võng suốt hôn mê
Chương Dương sánh ánh trăng vàng võ
rọi thấu vào trong dạ não nùng
con cá lội qua Cầu Ông Lãnh
như chiếc ghe bầu khẩm héo hon
nước chia mấy ngả sao không thấy
mấy ngả phong trào thuở thiếu niên
Sài Gòn Gia Định em vô trước
qua ngõ Cầu Bông mới tủi thân
chiếc xe đò cũ hơn chùa miễu
chở hết vàng son tới ủ ê
đêm đêm rực tiếng côn trùng dậy
trống trải hồn ta đến thấu trời
xa lộ phía bên gà gáy tối
về lối Hàng Sanh có tiếng cười
anh lén ghé qua nhà kẽo kẹt
thấy tiếng cười trong một giâ'c mê
Sài Gòn Phú Nhuận nhớ không nổi
có ngã nào qua Khám Chí Hoà
hỏi thăm quên mất tên thằng bạn
như lá trên rừng đang chuyển mưa
trận mây đồng phục nặng như thép
ửng chút đời xưa rạng chỗ ngồi
những người cách mặt gần như nhớ
những mặt trời xây xẩm trở về
Sài Gòn Chợ Lớn nhớ không tới
con gái Bàn Cờ qua Thủ Thiêm
chiếc phà chở hết tên thành phố
mỗi ngã tư trời đất mỗi nơi
nhớ thương cũng mỏi cánh cao vút
đáp xuống Cầu Ba Cẳng xả hơi
mọc thêm một cánh chân thời thế
con thú về Lục Tỉnh mất tiêu
nửa đêm em đổ mồ hôi trộm
như nụ cười che chở thịt da
Sài Gòn bước cho rõ tiếng guốc
nắng vàng vàng trên đá nứt mê tơi
như một mùa hoa nở cấp tốc
đưa đường tại hạ ghé qua chơi
hỏi thăm con bạn thời sinh tử
đã lánh mình qua miệt Chánh Hưng
cầu Chữ Y yêu kiều ba ngã
có ngã lui về đế dưỡng quân
nồi lẩu lươn chua đêm nuốt khói
ta với mình nhứt dạ đế vương
Sài Gòn Chợ Lớn dưới mặt đất
ngõ hẽm đời sau rối địa hình
tiếng nói cất lên, ngoài tiếng nói
của đàn ông nói chuyện với rồng
tiếng hát cất lên, ngoài tiếng hát
để về khuya phượng múa chung quanh

kẻ sống còn

chúng ta còn . Còn kẻ còn sống
ít nhất, điều nhớ của người chết
điều hy vọng của người đã sống
còn sộng Còn cung tay . Còn chửi thề
mọc trong khí hậu, gọi là con người
những ngàn năm mười năm
còn hốt cốt, còn thiêu xác
những mười năm ngàn năm
còn sống còn dãi nắng dầm mưa
trái tim xanh lá cây trên dòng chữ điến hình
còn chửi thề, còn cung tay
chẳng gian lận với tử sinh
mỗi người một thượng đế có hơi thở
một đời sơn tinh cùng thủy tận
kẻ còn sống còn trong hốc núi
hỏi chính trong cơ thể một người Việt Nam hùng cường
còn sống còn cung tay còn chửi thề
còn căm hờn như đã bất khuất
kẻ đi rao giảng một tôn giáo chung quyết
tấm lòng trẻ thơ hãy còn giận dỗi
hồi kết cuộc là một khởi đầu
kẻ sống còn là người di tản
hỏi chạng vạng hỏi hoàng hôn hỏi New Orleans
Jazz màu xanh hay Jazz màu đen
đổ ra đầy đường Madrid khiêu vũ
chiêng trống bắp thịt mừng người qúa cố
mắt xanh dương Địa Trung Hải
mắt sơn lâm, mắt đồng áng
người đến có chúng tôi đi có chúng tôi
có ngoại tình có phản trắc để yêu em
ngó xuống thấy thành phố . Ngó lên thấy thành phố
tiếp tục làm thầy tu xuất không ngừng
với lương tâm bao dung
anh trớ thành tình nhân sung mãn
khuất đi những cuộc đảo chánh đẫm máu
giết chết những thế hệ chính trị giả trá xảo quyệt
chúng tôi một mình dựng cờ khởi nghĩa
hoá giải những mặc cảm tôn giáo bất kỳ
bằng tấm lòng cao cả
thuộc thời kỳ tình tứ
khi mọi người lên trời
chúng tôi đến tương lai
chào đón . Chào đón
chào đón những mười năm ngàn năm những đứa con
bằng môi mắt chỗ khác

Lý Con Trăm Hương

chiều chủ nhật đón em ra phố
áo lụa vàng lọc nắng hoàng lan
chạm hơi thở chợt ngưng hơi thở
em thẹn thùng muốn rụng ngón tay 
cắt tròn lẵn múi măng trắng nõn
con bạn hàng quên ẻo lã rao
cánh hoa phượng ép khô năm ngoái
đậm màu da không phải chỗ này 
gió nhiệt đới tươm mồ hôi mật
tiếng đạn xa bay thấu lâu đời
mưa óng ả từng sợi diệp lục
guốc mù sương son đỏ gót chân
nói khe khẽ ngực đầy như núi
trắng mù mây lật vạt áo dài
tay đế che một tay đế dấu
nước đầy sông gần bước lên bờ 
bên thành phố bên nhà quê d-ó
đó ngoại ô đó thương cảng mà
phía nào cũng có anh ở đó
ở phía nào em cũng ngó theo
thời con gái có miếng ăn vụng
có lông măng trên ngọc cánh tay
ngó đến đâu em thẹn đến đó
ngó chỗ nào em cũng làm ngơ
đêm bày tỏ tấm lòng buổi sáng
hoa mười giờ tươi nụ cười riêng
nắng mùa mưa Bàn Cờ Tân Định
lý em ngồi theo kiểu đời xưa
mưa mùa nắng đời tư tràn trụa
tình ái em có nhận hột xoàn
tiếng cười nước mắt óng ánh hết
lý em ngồi theo kiểu đong đưa 
nắng mùa lạnh hỏi thăm quê quán
xa rất gần nhưng gần rất xa
-dêm tuyệt kỹ dưới đáy trí nhớ
lý trăm hương đi đứng dậy thì 
con trăm hương cánh tay tròn lẳn
sửa soạn bàn tay đế cho anh
con nhỏ cười mát như nước suối
con nhỏ buồn mây nặng gần mưa 
sáng hỏi thăm trăm hương buổi tối
mỗi ngày gần như rượu lâu năm
khi nhớ lại con nhỏ hoảng hốt
đã thành ra tình ái mặn nồng
lý trăm hương nghe còn sung sướng
không hồi xưa mà có đời xưa
con trăm hương hồi xưa con gái
hồi bây giờ con gái như xưa 

cánh đồng trầm thủy

tặng Tô Thùy Yên
mở cửa. Không gian. Em. Mở. Thật lâm ly
thêm mùi mồ hôi trộm
-dàn bà của tôi. Liên bang. Hiệp chủng
đường ranh giới như sợi dây ảo thuật
tháo gỡ gút mắt trắc trở
đi thăm thế giới bằng thông hành thường trú Hoa Kỳ
nơi nào cũng có Việt Nam chật nhân loại
nhìn ngắm tấm thân em. Bằng. Cặp mắt Chữ Đồng Tử 
mùa gặt trên không trung. Mở cửa
trại tế bần nhân loại
lấy con mắt giả đập nát giữa bàn rượu
khuya khoắt chẳng hồi tâm
anh cúi xuống đáo để
cúi xuống
mất mặt mày
Lịch Sử vẫn tiếp tục chảy
máu
từ lỗ thị giác phế thải 
mở cứa kiểu cách. Tôi. Mở. Võ hiệp kỳ tình
mỗi thế giới láng giềng
miếng miểng lựu đạn còn kẹt góc trái tim
anh giữ se sắt ký ức
cánh tay não nùng ôm
khi anh rời châu thổ qua biển. Qua
bát ngát những lãnh địa trầm thủy
nồng nực mùi phù sa
Cái Con Việt Nam
ngoài chợ trời năm châu
kỳ vẩy đời tư nạm bạc giác vàng 
mở cửa New York, San Francisco, Seatle, Houston
mở cửa Đồng Tháp Mười, Long Xuyên, Rạch Giá,
Cà Mau, Cái Răng, Cái Tă'c, Cái Vồn
trên nóc cao ốc trùng trùng -dàn ông . Chót vót
điệp điệp -dàn bà. Cái Lớn. Cái Bé.
những bái vật muôn năm trong gốc gác con người
Cái Răng. Cái Tóc. Cái Lồn. Cái Hồn Vía còn tươi
kẻ di tản đã ra ngoài đường chân biển
và bao nhiêu đường chân trời. Không ai nhớ rõ
đi hết ngoài ánh sáng. Đốt lửa ngoài giới hạn
mở cửa không trung. Mở. Vô tận
những chuyến tàu chuẩn bị
nhân công sẵn sàng. Mùa gặt hái hư vô
ngọn lửa trái tim tôi. Hồi hộp. Ly kỳ
dẫn vào da thịt bóng tối. Xúc cảm
nhìn về phong cảnh địa cầu
nơi em rửa chân ngoài hồ sen. Nắng ở đó
phản chiếu ngang thế giới
mở cửa sông . Những trận mưa không dứt mặt trời
nơi em chống xuồng. Đi
dọn dẹp những khu rừng mắm
phù sa lục địa ửng đỏ dấu chân còng
anh cắt phát chín con rồng mở mang bờ cõi
ngũ quan Thái Bình Dương. Tất cả đổ mồ hôi
chim kêu hạnh phúc trong tỉnh trí
khi thủy triều rút lui
bầy cá sấu đội -dèn dẫn nước ngọt ra. Làm thịt hải sản
bằng tốc độ ánh sáng. Em. Đi theo dấu chân bóng tối
trên thượng tầng xi măng cốt sắt. Hở ra
dọn mình, chín tới, tươm mật, chảy nước. Rượn đực
đáp xuống thằng -dàn ông sung
cái đầu rồng hung dữ
từ cánh đồng trầm thủy bao la
dinh thự nổi linh đình trên mặt Nam Hải
quặng mỏ thịnh tình trong ruột đất đang thuần
chim Âu đáp xuống rợp trời
sông rạch mới đâm chồi. Nẩy tược
ra bông. Kết quả. Trái mãng cầu dai ngọt đậm
thuyền không gian cập bến
lúa sạ mọc cao vùn vụt theo con nước lớn
-dêm trăng sao như châu ngọc kết -dèn mở hội hoa đăng
con gái sinh ra hương thơm ngào ngạt
cánh đồng Không Trung,
cánh đồng Trầm Thủy, cánh đồng Tương
phụ nữ biên cương nhổ núi đánh giặc trời
Phật Nguyệt đẹp thiên tướng phá thiên binh
nhừng gần 3000 năm trước Tây Lịch
nữ tướng Hoàng Thiều Hoa
liệt nữ Trần Thiều Lan chị em nhà họ Trưng
con -dàn bà của cái huyền sử trăm năm
sầm uất tiểu sử người di tản
chim Âu cất cánh rợp trời
cây mắm dựng lên cái đầu rồng mê ly
Cánh đồng Không Trung. Cánh đồng Trầm Thủy
em mở khóa vô biên, anh mở chốt tinh sương
mâm triển khai kỳ hoa dị thảo
cái mõ, cái chuông
cái âm, cái dương, cái con người chứa chan phú qúi
đoàn ghe tam bản dựng lộng kết hoa
kinh rạch thấp sông ngòi cao
đưa nàng về dinh. Chim én làm tổ
sinh con đẻ cái hương thơm ngào ngạt
đi đâu cũng trở về. Mỗi năm. Huyền sử một lần
ra giêng hết sức
hẹn gặp nhau trên cánh đồng Trầm Thủy

để tưởng nhớ mùi hương

tựa đề một quyển tiểu thuyết của Mai Thảo
chừng ấy núi với tình tứ núi
chừng ấy sông anh nặng mấy ngàn sông
trước ngưỡng cửa mùa thu những -dêm chớm lạnh
lanh lãnh ở trên trời, ấm áp dưới biển sâu
từng ấy ngón tay trên từng cúc áo
anh ăn mặc tân thời bằng quốc phục Ngọc Anh
xứ sở Ngọc Anh phong cảnh thanh tú
như mặt trời trong thế giới Việt Nam
ngoài diện kiến chậu hoa cuối hạ
từ California nàng đến Houston
chuyến bay ấy có một đời người cố định
chở cố hương về thân ái với cố hương
từng chút một mỗi ban ngày quốc sắc
đĩa rau sống tha phương chưng dọn nụ cười
chén nước mắm mặn mà -dời sống
trái ớt nhân tình trong huyết thống lưu linh
từng chút -dêm trên từng chút hơi thở
cam quít đời xưa ngọt ở mùi hương
nắng Texas phơi mấy ngày mãn hạ
gái Cần Thơ như cốc rượu hồng -dào
em đến mấy bữa em về một bữa
về biển Thái bình anh ở Đại tây dương
hai bờ lục địa xuyên bang hiệp chủng
hai thế giới hữu tình trong Ngọc của Anh
khuya một nửa chung tình một nửa
một nửa tâm tư chìm ở Mã Lai
-dàn bà -di biển buồn so muốn khóc
nhớ ngôi nhà trên cánh mây bay
trời đất Ngọc Anh những ngày lập quốc
bên những giòng sông dầy lệ thủy triều
mùa cá rực rỡ kỳ vẩy nhiệt đới
em dạy cho anh đánh lưới ái tình
anh đi hồ hải thèm những điều vô định
tìm gặp hải hồ ngoài góc biển chân mây
đến lúc trở về thấy ngàn trùng cố quốc
nhưng có ngôi nhà trong lãnh thổ Ngọc Anh
phụ nữ ngoài kia những ơn nghĩa thiên phú
quần áo trữ tình trong khu vực đông nam
thành phố Houston mỗi lần em đến
em có một mùi hương trong một mùi hương 

thứ -dàn ông biệt xứ

thứ -dàn ông đi biệt xứ
nằm cư xá rình động tĩnh
chó mèo hoang
réo gọi trong đầu óc khuya
những địa danh những người thân thuộc
ngày -dêm nêm chặt trong đầu
con ngựa gỗ gãy chân
tiếng xe ngoài xa lộ gọi thức dậy những chuyến đi thèm
người trên đoạn đầu -dài
lưỡi dao thời gian chém
như Mỵ Châu chạy đến biển Nam Hải
thứ -dàn ông đi biệt xứ
-dêm dao bén thọc lỗ con ngươi
trong quán rượu người -dàn bà -dầy
chỗ con mắt lòn lõi
sợi dây -dàn bén siết cổ họng
âm thanh bể thính giác
tiếng hát độc dược đổ vào
cảm xúc hở
người ngồi trong góc đại dương
như Hai Bà Trưng chạy đến Hát Giang
một ngày không biết nói chuyện với ai
đôi mắt rớt ra ngoài thiên hạ
thứ -dàn ông đi biệt xứ
uống rượu ngà ngà suốt -dêm mất ngủ
nhớ người -dàn bà từng chung chăn gối đập con muõi trong mùng
chuyến xe chở súng đạn chạy vào đầu
giấc mơ đứt hơi thở
trở về xử tội kẻ bức tử
ngôn ngữ nhập vào mệt
con mãnh sư móc họng
như Trần Bình Trọng tử tiết 
một ngày không biết nói chuyện với ai
mỗi cọng nắng mỗi giọt sương một khúc sầu ngâm
thứ -dàn ông đi biệt xứ
mấy ngàn năm cũng mộng trở về
trái bom nố chậm
quả lựu đạn rút ngòi
giữa đám đông cô độc
ngọn cỏ non như lưỡi gươm đâm
cảm giác khùng điên thức dậy
trí nhớ nổ kinh hoàng
tháng một tháng chạp gặt lúa nuôi quân
vạt áo bay ngoài thế giới em
một hôm không biết tại sao mình khóc lạ lùng
một ngày không biết nói chuyện với ai
sống ở Hoa Kỳ cũng như chết ở Việt Nam vậy 

trên nóc saigon


để anh hát cho em ngủ quên
lời êm ái như cỏ xanh mướt
mây và hoa trên nóc thành phố
nơi đóng rêu nơi anh hoang vu
chẳng ai ngờ anh hôn ngón tay
nơi anh kể chuyện buồn cổ tích
chẳng ai ngờ anh hôn mái tóc
một ngọn cây còn một gia tài
chẳng ai ngờ anh hôn đôi môi
con đường rong thành phố phế thải
chợt cơn nắng tiếp trận mưa mù
lá me rơi trong tách cà phê
chẳng ai ngờ anh chưa chết đói
bụi cỏ may mọc nửa lưng trời
một cụm mưa làm phong cảnh đẹp
mặt trời xanh mọc trên gò má
nơi mấy năm bụi phủ lặng thinh
chẳng ai ngờ anh hôn mắt khép
người dưới đất cờ bay phất phới
chẳng ai ngờ hai đứa tự tình
cò trổ hoa trên nóc cao ốc
chẳng ai ngờ anh còn đủ sức
để anh hát cho em ngủ quên
lời êm ái nhỏ như sợi chỉ
chẳng ai ngờ em chết lạnh băng

Uẩn Tình Kẻ Xa Xứ


tôi một bữa ngồi yên như bàn ghế
nắng rọi trong đầu những trắng bao la
còn đôi mắt tôi ở nhà bè Gia Định
ở ngã Tư Bảy Hiền ly nước mía, má, môi
em đạp xe mini trời gió mềm trong áo
thành phố bập bềnh trôi giữa nắng mênh mông
sợi tóc chẻ hai gần đường xích đạo
vạt áo sau lưng khép hở Saigon
tôi một bữa đợi em mòn con mắt
từ Suối Máu em về xanh như lá cây
những kẻ đã sống chết cho Độc Lập Tự Do bị xử tội phản quốc
anh bỏ đi rồi em ở với ai
phần hoa cúc dại nở trên ngọn gió
buổi chiều dưới thung lũng héo hon
tôi kể tôi đã chết mấy mươi  năm về trước
bây giờ là thằng bù nhìn tơi tả thê lương
em hãy kể tôi như trái cây lột vỏ
để qúa -dêm ngày hôi gió thịt xương tôi
như gái tỉnh lẻ thất thân nơi thị trấn
lỡ một lần lỡ thêm nữa chẳng sao
em hãy kể tôi đã tới hồi mạt vận
tuyết phủ đầy đóng đá tay chân
hồn hải điểu bay ngày -dêm qua biển
bay mãi có ngày rụng cánh bơ vơ
em rớt thăm thẳm xuống vực sâu thời cuộc
sương Saigon thấm lạnh áo mồ hôi
mưa lất phất ngoài ngã năm ngã bảy
gió lọt vào em từ ngã bảy ngã ba
em ở cư xá Thanh Đa em ở chung cư Minh Mạng
em ở khắp đất trời trong thế giới tôi
em ở với Việt Nam ở với ly cà phê -dá
ở với chỗ em ngồi ấm uyên ủy tôi
tôi ngủ mấy ngày -dêm vẫn chưa mộng mị
thử tưởng tượng một ngày cho đỡ thê lương
em với nắng với Saigon với tôi tập họp
nắng trên Saigon, Saigon trên nắng lô nhô
em đâu biết, tôi bây giờ, hầu như cây kiểng
bỏ phế trong nhà cũng mấy năm qua
tôi sống, cảm giác, ngọn dáo đâm trước ngực

http://www.gio-o.com/thocaodongkhanh.html
Hình by huyvespa 

website counter