(bài viết của tác giả UYÊN NGUYÊN - hình của huyvespa.multiply.com)
(các quyển thơ của THƯ QUÁN HƯƠNG TÍCH - của thầy TUỆ SỸ, có thể mua ở NHÀ SÁCH HÀ NỘI - đường NTMK, Saigon)
Những năm sau này, khi có dịp về Nha Trang thăm nhà, tôi thường được mấy Dì kể lại trước đây gia đình có cả một hầm sách, báo và tư liệu giá trị của các học giả, văn nhân, thi sĩ nổi tiếng miền Nam Việt Nam. Nhưng kể từ sau năm 1975, những quyển sách ấy phải đốt đi rất nhiều. Vì khoảng thời gian đó ngoài tầng lớp quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị đẩy vào các trại tù “cải tạo”, những gia đình có loại tác phẩm như vậy – đều bị liệt ra thành thứ văn hóa phẩm “đồi trụy” – thì những người cất giữ cũng được gán tội “phản động”. Nếu không may họ là tác giả của tác phẩm nào đó, thì thân phận có khi còn khốn nạn hơn cả những người lính cầm súng ngoài chiến trận.
Thời của một chế độ lên ngôi bằng vũ lực “súng và xe tăng”, mà thành phần sĩ phu trí thức Việt Nam luôn là nỗi ám ảnh sợ hãi cho những kẻ cầm quyền.
Ngày 9 tháng Chín năm 1987, sau gần 12 năm tù đày, nhà thơ Trần Dạ Từ, một gương mặt trí thức miền Nam Việt Nam ra khỏi trại tù Z30D ở Hàm Tân, Việt Nam. Ngày 9 tháng Chín năm 1988 ông và gia đình được tiếp đón tại Thụy Ðiển. Một năm sau cũng đúng ngày này, ông đến Mỹ và trong một buổi sinh hoạt tại Little Sàigòn, kể lại cùng thân hữu: “Ðêm thứ Sáu rạng thứ Bảy, 3 tháng Tư, 1976, mười một tháng sau khi chiếm Sàigòn, công an Cộng Sản được huy động toàn lực vào một chiến dịch đặc biệt: bắt giam toàn bộ các nhà thơ, nhà văn, nhà báo và một số nghệ sĩ miền Nam tự do cũ. Từ 0 giờ ngày 3 tháng Tư, 1976, ngay đợt đầu, gần 60 người bị bắt giữ. Chị Chu Vị Thủy, thứ nữ của nhà văn Chu Tử, vừa sinh cháu trai chưa quá 7 ngày. Cả hai mẹ con cùng bị bắt. Ðứa trẻ sơ sinh trở thành người tù trẻ nhất, chỉ vì cháu lỡ mang tý huyết thống của ông ngoại. Ký giả Hồ Nam, tức nhà thơ Vương Tân, từ lâu đổi nghề, ẩn cư đâu đó ở Mỹ Tho, vẫn có xe công an — từ Sàigòn vượt 70 cây số về một chợ nhỏ tỉnh lỵ — bắt cho bằng được…”
“Các cuộc truy lùng sau đó còn tiếp diễn cả năm. Tuần báo Pháp L’Express, và tổ chức Văn Bút Quốc Tế, phải mấy năm sau đó, mới công bố được danh sách hơn trăm văn nghệ sĩ Việt Nam bị cầm tù không xét xử. Ðây chưa phải là danh sách đầy đủ. Cho tới nay, gần 14 năm sau, vẫn còn những người bị giam giữ. Nhà văn Thảo Trường tiếp tục bị giam ở Z.30D, Hàm Tân. Các nhà văn, học giả Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Trí Siêu, Tuệ Sỹ vẫn tiếp tục bị giam cầm tại trại khổ sai Z.30A, Long Khánh. Trong số những văn nghệ sĩ bị chết vì tù đày, riêng Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, đã mất trọn một ban chấp hành: nhà thơ Vũ Hoàng Chương, chủ tịch, nhà văn Hồ Hữu Tường, phó chủ tịch, và nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, tổng thư ký…”(trích “Sức Mạnh Thức Tỉnh Từ Chính Thân Xác Người Cầm Bút” đăng trong Thế Kỷ 21, số 6, phát hành tháng 10, 1989)
Nhắc lại, để thấy dù trãi qua một hoàn cảnh văn hóa bức bách như vậy, song vẫn có rất nhiều người từng cất giấu và gìn giữ những tác phẩm giá trị trước 1975 trong nhà, ở đâu đó dưới lồng đất, trên gác xép, dưới gầm giường hay những nơi tạm hiểu và chấp nhận rằng “chỗ nguy hiểm nhất là an toàn nhất”, nên hôm nay bằng cách này hoặc cách khác, hàng ngàn tác phẩm quý giá trước 1975 kể cả mới mẽ sau này, lần lượt đang xuất hiện ngay chính trong cái khung cảnh mà nó đang bị ức bách. Hiện tượng đó không phải là sự thay đổi thái độ của một chế độ mà người ta luôn tìm cách ém nhẹm và đè bẹp mọi giá trị phổ quát tốt đẹp như tôi vừa đề cập, mà chính là thái độ sĩ phu của một tầng lớp trí thức bền bỉ “trơ gan cùng tuế nguyệt”, sống còn với vận mệnh văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, hàng loạt tác phẩm của nhiều tác gia lớn không chỉ riêng Việt Nam mà cả thế giới đang hiện hữu như một ấn chứng khẳng định giữa bầu không khí xuất bản hiện nay ở quê nhà, là dấu hiệu đáng mừng khi nó dần dần rõ nét, đẩy thành một luồn gió văn hóa cần thiết cho đất nước. Tất nhiên những tác phẩm này khi ra đời đặt trên nền tảng được tích lũy và thực hiện bằng sự quan tâm của những người ý thức vận mệnh văn hóa chân chính, nghĩa là những người cống hiến cả cuộc đời cho chính sự nghiệp ấy.
Hình như trong lịch sử thế giới và cả lịch sử nước nhà, qua các triều đại mà vua quan “đốt sách” và chủ ý “ngu dân”, thì cái khốn nạn của những người làm văn hóa chân chính luôn khác với người cầm súng ngoài mặt trận, chiến tuyến được phân ranh rạch ròi. Trái lại, người làm văn hóa thì không thể không làm gì, dù đang giữa lồng kẻ thù. Hành động như thế, là nhắm đến cứu cánh.
Mỗi một chúng ta ai mà chẳng có một thời mang tâm lý “cầu sanh úy tử”, nhưng chẳng vì cái sợ ấy mà tránh phải một lần băng qua nghĩa địa u u linh linh. Cho nên những người làm Văn Hóa chân chính Việt Nam bây giờ cũng đang băng qua cái bờ bãi tha ma ấy, để mong có ngày đất nước sẽ bước sang phía trời gấm hoa.
Tôi nhìn mấy quyển sách cũ phong sương và mấy quyển sách mới của thầy Phạm Công Thiện, của thi sĩ Hoài Khanh, của thiền sư Daisetz Teiraro Suzuki; những công trình nghiên cứu kinh điển của thầy Hạnh Viên, hay văn học Phật giáo của thầy Phước An trong tủ sách Hương Tích; luôn những tác phẩm nhỏ nhắn khiêm tốn mà cháy bỏng tâm huyết của nhà xuất bản Giấy vụn, Da vàng v.v… với niềm hạnh phúc rưng rưng!
Bấy giờ, những khi xếp lại những quyển sách quý, đặt ngay ngắn trên Kệ Sách Hoa Ðàm, tôi muốn bày tỏ niềm trân trọng và biết ơn hơn bao giờ hết đối với những ai đã làm nên những tác phẩm ý nghĩa này, giữa thời mà người đã bỏ đi hết, chỉ trơ trọi một cảnh đồng hoang, sơ xác…
Tháng 3, 2011
Một vài TUỔI NGỌC, VĂN & nhạc tập mới sưu tầm được, sẽ có 1 entry scan các nhạc tập này!
Viết thêm: hình và 1 bài thơ của tác giả VIÊN LINH mới nhận trong inbox
"Nhìn những góc giáo đường nhà thờ Đức Bà, một khung cổng sắt thâm nghiêm, nhìn bồn nước và mấy bậc thang cũ kỹ, hoen rỉ, những lưới sắt bao kín một ngôi nhà (khiến mình hình dung có dáng người thanh thoát nào đó bên trong); nhìn cây cột xi măng ở con đường Duy Tân bóng mát, nhớ con rùa trong hồ nước, chỗ ấy gần Trường Luật, gần khu Cư xá các giáo sư Đại học, bác nhớ những lời ca của Phạm Duy “Con đường Duy Tân, Cây dài bong mát, … Uống ly chanh đường, Uống môi em ngọt…” 37 năm rồi từ ngày bỏ Sài gòn, bác chưa về lại, và ngạc nhiên tìm thấy Sài gòn cũ qua cái nhìn của Huy, một chàng trai trẻ măng mà nhìn thấy vẻ đẹp của thành xưa cổ kính. Bác nhớ những buổi trưa ngồi Lambrtta xẹt vào Bưu Điện mua một bao thuốc lá Pall Mall điếu dài, một cái bánh mì, hôm nào không ăn bánh mì thì thay bằng một cái bánh “Papa au rhum” (bánh ngọt có pha rươu rhum, hình thể tròn, để trong cái chén bằng giấy, nổi tiếng của tiệm bánh ở ngoài cửa Bưu Điện). Huy chụp được cả mấy chùm hoa phượng đỏ tươi . Không nói ra mà bác thấy Huy vừa đi vừa ngước nhìn lển trời xanh, nhìn hoa lá cành, những mái nhà, bờ tường, cột sắt, tượng đá. Saigon, Paris của Viễn Đông như ngưởi Pháp nói. Đó là khu Phố Tây của Sài gòn đấy. …” Huy là một thi sĩ đấy, thi sĩ làm thơ về sự thanh vắng của lá cành, vỉa hè, hoa viên, làm thơ bằng ống kính máy hình, chụp được sự im lặng dữ dội - [! chữ này hay đấy, của cô gì đấy bác mới đọc! ] – cái nghịch lý của một chữ như thế mới diễn tả được nét đẹp làm ta đau thương. Gửi Huy một bài thơ về Sài gòn đăng báo khoảng năm 1970.
SINH NHẬTHôm nay năm tận, SàiGòn
Tôi nghe khiếp hãi tâm hồn già nua
Giật mình con quỉ ban trưa
Tiếc mùa hoan lạc hái chưa đủ hời.
Hôm nay trời đất có tôi
Trên ba mươi tuổn làm người lãng quên
Xuân hồng, một góc thiếu niên
Năm năm mê mải những miền hoài nghi.
Trên ba mươi tuổi ù lỳ
Đêm về kéo cửa ngày đi kiếm mình
Cảnh đời, một cỗi u minh
Cảnh tôi thấp thoáng bóng hình những ai.
U mê hết tháng năm dài
Chân trong lối kiệt hồn ngoài bến không
Hôm nay năm tận, bàng hoàng
Giục thêm tiệc rượu ngồm ngoàm đĩa vơi.
Nhìn ra cảnh cỗi, riêng tôi
Trong hiên viễn phố thấy đời buồn tênh."