Nơi cuối trời em thắp vì sao,
phiên gác buồn anh vẫn lẻ loi
(“Lời cho người yêu nhỏ”, Trần Thiện Thanh)
H ầu như mỗi người trong chúng ta đều giữ riêng cho mình những khúc hát, những bài nhạc mình yêu thích nhất. Một bài nhạc cũ đôi lúc không có ý nghĩa gì nhiều lắm đối với người này thế nhưng đối với người khác, mỗi lần nghe lại, như khơi dậy cả “một trời kỷ niệm”. Khi nói về bài nhạc mình yêu thích, người ta cũng thường nói về giọng hát gắn liền với bài nhạc ấy. Không chỉ yêu bài nhạc ấy thôi, có khi người ta còn “yêu” cả giọng hát ấy nữa và chỉ muốn được nghe bài ấy với giọng ấy chứ không phải giọng nào khác. “Bài này là phải nghe Thái Thanh hát” hoặc “bài này không ai hát qua được Thái Thanh”, ta vẫn nghe như vậy. “Bài này” có thể là tên một nhạc phẩm của Phạm Duy, hay của Văn Cao, hay của Phạm Đình Chương…
Người ta có thể thay tên Thái Thanh trong những câu ấy bằng tên một ca sĩ nào khác, và “bài này” có thể là tên một nhạc phẩm của nhạc sĩ nào khác. Một trường hợp khá đặc biệt: khi bài nhạc được yêu thích là của Trần Thiện Thanh thì người ca sĩ hay giọng hát gắn liền với bài ấy nhiều phần lại là… tác giả của bài nhạc: ca sĩ Nhật Trường.
Từ “tiếng hát đôi mươi” đến “đêm giã từ sân khấu” Bao giờ cũng vậy, nghe câu hát ấy và nghe giọng hát ấy cất lên đâu đó, cho dù có đang làm gì, tôi cũng lặng yên một lúc, lắng nghe cho đến hết bài nhạc. Câu hát như đánh thức trong tôi những nhớ thương dịu dàng và, nói như ở trên, cũng đã khơi dậy trong tôi cả “một trời kỷ niệm”.
Rồi đến một chiều phai nắng
và khi gió heo may sang,
tôi cúi đầu trên sân vắng…
Bài hát, thực ra cũng chẳng có gì đặc biệt lắm, chỉ là nói về nỗi niềm của chàng trai vừa “xếp áo thư sinh”, giã từ trường lớp, giã biệt tình đầu, vai mang hành trang bước vào đời quân ngũ.
Tôi lặng ngước trông cao vời,
nghe đâu nghìn mưa bão sắp xô lên đời mình…
Chữ “xô” ấy nghe hay quá, và phải là giọng hát ấy mới nghe ra được cái ý dập vùi của giông tố phũ phàng.
Xin chớ hỏi lòng nhau nữa,
vì biết nói sao cho vừa…
Chữ “hỏi” nghe chùng xuống như tiếng đàn chùng dây. Chữ “vì” khựng lại như một thoáng ngập ngừng. Chữ “nói” rướn lên, và nốt láy mỏng ở “cho… vừa” nghe sao mà tha thiết quá chừng!
Tôi vội bước ra sân trường
không quay nhìn đôi mắt thoáng… rưng rưng lệ buồn.
Cái xuống giọng ở những nốt nhạc “rưng rưng” ấy nghe sao mà… rưng rưng!
Giọng hát ấy là giọng Nhật Trường. Bài hát ấy là một bài của Trần Thiện Thanh, “Giây phút tạ từ” (1967).
Thường thì nhạc sĩ không phải là ca sĩ, và nếu kiêm nhiệm hai vai một lúc thì cũng… ít được tán thưởng. Muốn những ca khúc của mình tới được người yêu nhạc, cần đến một giọng hát; hơn thế nữa, một giọng hát phù hợp, thể hiện được tình cảm của bài nhạc. Trường hợp Trần Thiện Thanh có hơi khác một chút, ông được giới yêu nhạc biết đến qua sự giới thiệu của… ca sĩ Nhật Trường; hay nói cách khác, người ta yêu tiếng hát Nhật Trường từ khi chưa quen biết nhiều tên tuổi nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
Tiếng hát Nhật Trường nghe được trên các làn sóng phát thanh ở miền Nam Việt Nam từ đầu thập niên 60’s, và đã sớm chinh phục trái tim thính giả yêu nhạc. Giọng hát ấy cũng cất lên trên các sân khấu ca nhạc, đại nhạc hội, và cả trong những màn “phụ diễn văn nghệ” cho các chương trình “tuyển lựa ca sĩ” của đài phát thanh Saigon tại rạp Quốc Thanh (nơi ông và ca sĩ Duy Khánh, mỗi lần dứt tiếng hát là mỗi lần nhận được những tràng pháo tay vang dội lẫn trong tiếng hò hét “bis, bis” từ phía khán giả cuồng nhiệt để yêu cầu hát tiếp, hát thêm, hát nữa…). Giọng hát ấy cũng nghe được qua các dĩa nhạc, băng nhạc và các chương trình ca nhạc của đài truyền hình, đài phát thanh Saigon, đài phát thanh Quân Đội, đặc biệt là chương trình Tiếng Hát Đôi Mươi (từ năm 1965) vào mỗi chiều thứ Hai trên làn sóng phát thanh đài Tiếng Nói Quân Đội. Giọng hát ấy cũng từng góp tiếng trong các ban nhạc truyền thanh, truyền hình được yêu chuộng thuở ấy như Tiếng Nhạc Tâm Tình (ca sĩ Anh Ngọc phụ trách), Tiếng Tơ Đồng (nhạc sĩ Hoàng Trọng), Hoa Xuân (nhạc sĩ Phạm Duy), Tiếng Thời Gian (nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông)…
Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, trong khi ấy, tuy đã có những sáng tác từ trước đó, chỉ được biết đến nhiều qua nhạc phẩm “Không bao giờ ngăn cách” (1963), ra đời ít lâu sau nhạc phẩm “Ngăn cách” khá nổi tiếng của nhạc sĩ Y Vân. “Không bao giờ ngăn cách” được nhiều ca sĩ tên tuổi thuở ấy trình bày (gồm cả những giọng ca gắn liền với “Ngăn cách” như Thanh Thúy, Minh Hiếu và cả… Nhật Trường, tất nhiên), được yêu chuộng và phổ biến rộng rãi, trở thành… nổi tiếng không kém gì “Ngăn cách” và làm nên tên tuổi Trần Thiện Thanh. (Có lẽ vì câu hát “chúng mình cách xa mà vẫn gần nhau”–gói trọn tình ý của bài nhạc–đáp ứng được tâm tư tình cảm của những lứa đôi thời chinh chiến).
Một ca sĩ tên tuổi thường có ít nhất một, hai bài nhạc nào đó gắn liền với tên mình. Khi nhắc đến tên bài nhạc ấy, người ta nghĩ ngay đến tên ca sĩ ấy. Một bài nhạc khi đã gắn liền với tên tuổi ca sĩ nào rồi thì ca sĩ khác tốt hơn nên… hát bài khác, nếu không muốn người nghe làm một sự so sánh và thêm nhớ… một giọng hát khác. Có khi chỉ một bài nhạc thôi cũng đủ làm nên tên tuổi ca sĩ (bây giờ gọi là “thành danh”). Nhiều ca sĩ một “đời ca hát” chỉ mong được “ký tên, đóng dấu” vào một bài nào đó để tên tuổi không chìm vào quên lãng. Nhưng đâu có phải muốn là được. Việc thẩm định và đưa ra phán quyết bài hát nào thuộc về ca sĩ nào là… thuộc về thính giả. Nhiều ca sĩ từng hát nhiều bài và bài nào… nghe cũng hay, nhưng vẫn không “đóng dấu” nổi tên mình vào một bài nhất định. Trong lúc ấy, Nhật Trường lại có khá nhiều bài hát gắn liền với tên mình, hầu hết là những bài của… Trần Thiện Thanh. “Nhạc Trần Thiện Thanh không ai hát hay hơn Nhật Trường,” nhiều người dễ dàng chia sẻ nhận xét này của nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Hát “hay hơn” thì chưa thấy có ai thật, nhưng hát hay… không kém, theo tôi, có thể kể ra được một vài, chẳng hạn Lệ Thanh với “Anh nhớ về thăm em”, Minh Hiếu với “Không bao giờ ngăn cách”, Trúc Mai với “Hàn Mạc Tử”, Sĩ Phú với “Khi người yêu tôi khóc”… Khi nhắc đến tên các bài nhạc ấy, người ta vẫn hay nhắc đến tên các ca sĩ này.
Đúng là “nhạc Trần Thiện Thanh không ai hát hay hơn Nhật Trường”, kể cả những bài… không dành cho Nhật Trường. “Bảy ngày đợi mong” chẳng hạn, bài hát tưởng chỉ dành cho giọng nữ (nói về nỗi hờn trách của cô gái vì người yêu lỗi hẹn), vậy mà đến nay vẫn chưa thấy ai hát hay hơn Nhật Trường.
Tôi có anh bạn rất “chịu” giọng Nhật Trường, lạ một điều là trong số những bài anh ta thích nghe ca sĩ này hát lại chẳng có bài nào của… Trần Thiện Thanh cả. “Bài tango ấy là chỉ có nghe Nhật Trường thôi,” anh ta nói thế khi nhắc đến bài “Ngỡ ngàng” của Hoàng Trọng. Anh cũng chịu Nhật Trường hát “Bến giang đầu” của Lê Trọng Nguyễn, “Khi em nhìn anh” của Y Vân và “Tình yêu đến trong giã từ” của Phạm Mạnh Cương (không phải bài nhạc cùng tên của Nguyễn Ánh 9). Tôi không rõ vì sao anh ta không “chấm” được bài nào của Trần Thiện Thanh (hoặc vì Nhật Trường hát nhạc Trần Thiện Thanh thì… bắt buộc phải hay rồi nên không cần phải bàn tới).
Tôi cũng đồng ý với anh bạn là Nhật Trường hát những bài ấy thì… không chê vào đâu được, và cũng muốn kể thêm một ít bài, tuy không phải là nhạc Trần Thiện Thanh nhưng “không ai hát hay hơn Nhật Trường” (tất nhiên chỉ là ý kiến cá nhân), chẳng hạn “Em tôi” của Lê Trạch Lựu, “Tấm ảnh ngày xưa” của Lê Dinh, “Chuyến đi về sáng” của Mạnh Phát, “Tôi sẽ về thăm em” của Hoàng Nguyên, “Mưa chiều kỷ niệm” của Duy Yên & Quốc Kỳ, “Kể chuyện trong đêm” của Hoàng Trang, “Hành trang giã từ” của Trường Sa, “Tình khúc mùa đông” của Thanh Trang, “Bây giờ tháng mấy” của Từ Công Phụng, “Biết nói gì đây” của Huỳnh Anh & Huyền Thanh, “Hoa biển” của Anh Thy, “Qua cơn mê” của Trịnh Lâm Ngân, “Tám điệp khúc”, “Hai vì sao lạc” của Anh Việt Thu…
Những nhận xét nêu trên là hoàn toàn chủ quan, không hẳn đã phù hợp với nhiều người. Có điều, dường như ai cũng có thể tìm thấy, qua tiếng hát Nhật Trường, bài hát nào đó mình yêu thích. Có thể nói thêm một hai điều: thứ nhất, trong số những bài trên, không ít bài, qua tiếng hát Nhật Trường, được phổ biến, được yêu chuộng và làm nên tên tuổi tác giả (như chính các nhạc sĩ ấy cũng thừa nhận), chẳng hạn “Tấm ảnh ngày xưa” của Lê Dinh, “Bây giờ tháng mấy” của Từ Công Phụng, “Hoa biển” của Anh Thy... Thứ hai, nhiều người dễ nhầm tưởng một đôi bài trong số những bài trên là “nhạc Trần Thiện Thanh” (như “Hoa biển”, “Hành trang giã từ”…) cũng chỉ vì những bài ấy “không ai hát hay hơn Nhật Trường”.
Những điểm nêu trên cũng cho thấy, không thể nào nói tới Nhật Trường mà không nói tới Trần Thiện Thanh, không thể nào tách rời hai con người ấy được, như một diễn viên đóng một lúc hai vai, như “mình với ta tuy hai mà một”. Có lẽ vì vậy mà sau này người ta thống nhất với nhau gọi ông là “ca-nhạc-sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh” cho… tiện (tuy có hơi… dài). Tuy vậy, có những lúc không nhất thiết sử dụng danh hiệu ấy, chẳng hạn khi giới thiệu ca khúc nào đó được “ca-nhạc-sĩ” này trình bày thì nên trả ông về với “ca sĩ Nhật Trường”. Hoặc, khi giới thiệu ca sĩ trình diễn nhạc phẩm nào đó của ông thì không cần nói, “Xin giới thiệu ca sĩ X. trong một nhạc phẩm của ca-nhạc-sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh”, mà chỉ nên nói “… của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh”.
Chuyện một nghệ sĩ trình diễn vừa là ca sĩ vừa là người soạn nhạc (singer-songwriter) không phải là chuyện lạ lùng gì, nhất là ở nước ngoài. Thực ra, không riêng gì Nhật Trường, trong số các nhạc sĩ của chúng ta vẫn có những người từng… kiêm nhiệm ca sĩ, hiểu theo nghĩa từng trình bày, trình diễn các nhạc phẩm của mình (và của nhạc sĩ khác, đôi lúc), thế nhưng người ta vẫn chỉ gọi là “nhạc sĩ”. Điều này có thể giải thích được: thứ nhất, vai trò nhạc sĩ trội hơn và được biết đến nhiều hơn là ca sĩ (chỉ “thường thường bậc trung”); thứ hai, để có thể gọi là “ca-nhạc-sĩ”, các nhạc sĩ này cần chứng tỏ rằng khó ai hát các nhạc phẩm ấy hay hơn… mình.
Trong vai trò “ca sĩ” (không phải ca-nhạc-sĩ), nhiều nhạc phẩm của nhiều nhạc sĩ, với nhiều thể loại, thể điệu khác nhau từng được thể hiện qua tiếng hát Nhật Trường (không hẳn là ông chỉ “chuyên trị” các thể điệu Bolero, Rhumba hoặc Slow, Slow Rock… như nhiều người tưởng). Người yêu nhạc hẳn vẫn còn nhớ từng được nghe Nhật Trường, từ những bài xưa cũ như “Bến đò xưa” của Đào Thừa Liệt & Nguyễn Kim (ban nhạc Tiếng Tơ Đồng), “Sơn nữ ca” của Trần Hoàn (ban Tứ ca Nhật Trường), “Lá thư”, “Gửi gió cho mây ngàn bay” của Đoàn Chuẩn-Từ Linh, “Ông lái đò” của Hiếu Nghĩa, đến những bài “Hòn vọng phu 1&3” của Lê Thương (với Thái Thanh), “Lối về xóm nhỏ” của Trịnh Hưng (với Như Thủy), “Hoài cảm” của Cung Tiến, “Tiễn bước sang ngang” của Hoàng Trọng & Hồ Đình Phương, “Tình anh lính chiến”, “Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi” của Lam Phương (ban Tứ ca Nhật Trường), “Khúc nhạc ly hương” của Lâm Tuyền, “Mộng dưới hoa” của Phạm Đình Chương & Đinh Hùng, “Ngày trở về”, “Trả lại em yêu” của Phạm Duy (với Thanh Lan), “Ghen” của Trọng Khương & Nguyễn Bính, “Hồn bướm mơ tiên” của Mai Trường & Tô Vân, “Lệ Đá” của Trần Trịnh & Hà Huyền Chi, “Bài không tên số 2” của Vũ Thành An (với Như Thủy), “Bông hồng cài áo”, “Tóc mây” của Phạm Thế Mỹ...
Trong lúc mỗi ca sĩ tên tuổi có một đối tượng thính giả nhất định thì tiếng hát Nhật Trường lại như có vẻ đáp ứng được các đối tượng thính giả khác nhau. Riêng đối với những ca khúc là sáng tác của chính ông, những ý kiến đại loại “nhạc Trần Thiện Thanh là ‘nhạc đại chúng’” có thể được hiểu là một lời khen hoặc ngược lại. Những bình phẩm cách ấy không nói được điều gì. Nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, như những món ăn tinh thần, thực khách tự ý chọn lựa cho mình những món hợp khẩu vị, thanh đạm hoặc cầu kỳ, quý hồ thưởng thức thấy ngon miệng. Không có sự hơn kém trong những khác biệt về quan niệm thẩm mỹ, về thưởng ngoạn nghệ thuật khi xem một bức tranh, nghe một bản đàn, đọc một bài thơ hay ngắm một bông hoa… Nhật Trường, trước sau ông vẫn muốn tìm kiếm những lối đi để lời ca tiếng hát mình đến được với trái tim của quần chúng. Ít nhiều ông cũng đã đạt được điều ước muốn ấy.
Đối với Nhật Trường, người ca sĩ có “tuổi nghề” trên dưới 40 năm, có tiếng hát khá quen thuộc và gần gũi với công chúng, ngày Chủ Nhật 3/11/2002 đánh dấu sự kiện có ý nghĩa đặc biệt trong “đời ca hát” của ông: “Nhật Trường và Bạn Hữu, Đêm Giã Từ Sân Khấu”, một chương trình ca nhạc, nói đúng hơn, một buổi họp mặt văn nghệ được ông tổ chức trong vòng thân hữu, là cơ hội để ông được chính thức thông báo về quyết định “giã từ sân khấu” và cũng để mọi người có dịp nói lời chia tay với “tiếng hát Nhật Trường”.
Có giọng hát nào đứng mãi được với thời gian đâu. Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, khi mà những “vết hằn năm tháng” đã hiện rõ trên khuôn mặt chàng ca sĩ điển trai ấy thì giọng hát ấy cũng không còn “trẻ” nữa. “Giã từ sân khấu” hay “chia tay tiếng hát”, những cách gọi ấy mang ý nghĩa gì nếu không phải là “giây phút tạ từ” (tên một bài nhạc của ông) để giữ cho tên tuổi ấy, giữ cho tiếng hát ấy còn đẹp mãi, còn ở lại mãi trong lòng người.
Tuy không còn chính thức xuất hiện trên các sân khấu ca nhạc, ông vẫn không từ chối mang lời ca tiếng hát tới những nơi nào cần đến sự góp mặt góp tiếng của ông, cho đến ngày ông thực sự nhắm mắt xuôi tay “giã từ cuộc sống” (gần ba năm sau ngày “giã từ sân khấu”) mà ông từng sống sôi nổi, từng yêu thiết tha và luôn muốn làm đẹp cuộc sống ấy.
Từ “Tiếng hát đôi mươi” đến “Đêm giã từ sân khấu” là cuộc hành trình thật là dài của người nghệ sĩ ấy, của tiếng hát ấy. Trong suốt cuộc hành trình ấy đã có những năm dài tiếng hát phải im hơi, là những năm mây đen phủ trùm lên đất nước, lên số phận cả một dân tộc, thế nhưng chưa có lúc nào tiếng hát ấy bị lãng quên. Như những khúc hát của Trần Thiện Thanh vẫn nghe thấy cất lên đâu đó, những tình cảm thương yêu dành cho tiếng hát ấy vẫn còn nguyên vẹn.
Nhật Trường (bên trái, ngoài cùng) và các ca sĩ trong ban
Tiếng Nhạc Tâm Tình (ca sĩ Anh Ngọc phụ trách) đầu thập niên 60’s
Nhạc tình, “một trời trăng sao” Giọng Nhật Trường không vang lộng, không được kể là “làn hơi phong phú”. Kỹ thuật ngân, rung không được kể là điêu luyện. Giọng ông cũng không “ấm” hơn những giọng nam trầm khác cùng thời với ông, nhưng nghe “mềm” hơn và “ngọt” hơn. Ông biết tận dụng cái giọng tốt trời cho ấy và biết cách “make-up” để làm đẹp thêm giọng hát mình. Nhiều người cho là giọng hát ấy có hơi… điệu. Nói thế không phải là không đúng, và cũng… không có gì lạ. Cái “điệu” ấy cũng là… tự nhiên thôi, vì ngay từ cử chỉ, điệu bộ cho đến cung cách nói chuyện của ông cũng đã có một vẻ gì… điều điệu. Và khi ông hát, cái “điệu” rất… Nhật Trường ấy thể hiện qua kiểu cách nhấn nhá và luyến láy mềm mại, qua chất giọng nồng nàn, tình tứ như những vuốt ve, mơn trớn. Quả là ông có “điệu” một chút thật, nhưng cũng chỉ là làm duyên làm dáng vậy thôi chứ không thái quá như những kiểu rên xiết, nấc nghẹn… hoặc “phô diễn kỹ thuật” như ít ca sĩ về sau này (rằng hay thì có hay nhưng… vô hồn, vô cảm). “Giọng hát truyền cảm”, nhiều người đã gọi tiếng hát Nhật Trường như thế, có nghĩa giọng hát ấy truyền được những rung cảm tới người nghe, hoặc nói cách văn vẻ, chạm được tới trái tim người nghe. Sức “truyền cảm” của giọng hát ấy không phải chỉ do ở “kỹ thuật” của riêng ông mà còn ở cách ông phả hơi thở đầy cảm xúc vào từng lời, từng chữ, từng nốt nhạc.
Qua tiếng hát Nhật Trường, có những bài hát đã trở thành kỷ niệm khó phai của “một thời để yêu, một thời để nhớ”. Không ít những cặp tình nhân cùng yêu thích một bài hát, một giọng hát. Khi gắn bó với một bài hát, một giọng hát, người ta càng cảm thấy gắn bó với nhau hơn. Giọng hát ấy không rơi vào quên lãng vì đã làm lay động những trái tim, làm đẹp thêm những mối tình.
Ta vẫn nghe được trong những câu hát của Nhật Trường–những năm đầu và giữa thập niên 60’s–những khung trời đầy trăng và sao, những khung trời tự tình của lứa đôi, và chất giọng nồng nàn, quyến rũ như lời tình tự ngọt ngào ấy đã làm xao xuyến, rung động không ít trái tim vừa chớm biết yêu của các cô nữ sinh, sinh viên hay mơ hay mộng.
Một ngày gần đây,
những đêm dài vô tận hôm nay
sẽ thay bằng một trời trăng sao
Sao rơi trong mắt này
trăng vương vai áo này
một trời trăng sao đó riêng đôi mình
(“Một ngày gần đây”, Trần Thiện Thanh)
Xin không thiếu trăng vàng trên tóc em
khi ánh sao rơi đầy mắt người yêu
(“Chân trời tím”, Trần Thiện Thanh)
Tôi sẽ về thăm em
khi trời lấp lánh sao đêm
và gió trăng theo từng bước chân êm
(“Tôi sẽ về thăm em”, Hoàng Nguyên)
Giọng hát Nhật Trường, giọng hát đánh thức những trái tim, đánh thức tình yêu dậy. Tình yêu, trong tiếng hát Nhật Trường, như được ướp bằng chất men lãng mạn, luôn có một vẻ gì đắm say, thiết tha và đầy thi vị.
Anh sẽ vì em làm thơ tình ái
(“Lâu đài tình ái”, Trần Thiện Thanh & Mai Trung Tĩnh)
Anh sẽ đưa em về nơi chân trời tím
(“Chân trời tím”, Trần Thiện Thanh & Nguyễn Văn Hạnh)
Câu hát mà nghe tựa câu thơ, giọng hát mà nghe như giọng đọc thơ.
Mây từ đâu trôi tới, mờ dấu chân trời
Em, tại sao em tới, cho anh yêu vội
(“Người yêu tôi khóc”, Trần Thiện Thanh)
“Người yêu tôi khóc”, một trong những “tình khúc Trần Thiện Thanh” được nhiều người yêu thích, là bài hát đẹp cả về giai điệu lẫn ca từ.
Khi người yêu tôi khóc, xin rất im lìm
như từ lâu tôi dấu những cơn muộn phiền
Khi người yêu tôi khóc thành phố buồn thiu…
Phải là “buồn thiu” chứ… buồn tênh (như một vài ca sĩ đổi lời) hay buồn teo, hay buồn xo, hay buồn… gì khác thì lại kém hay. Phải nghe Nhật Trường hát “buồn thiu” mới hình dung được con phố ấy… “buồn thỉu buồn thiu” như thế nào.
Trong những câu hát của Nhật Trường ta vẫn nhặt ra được những “câu thơ” như thế.
Chiều mù sương hay mù khói thuốc anh?
Áo ai xanh hờ hững đi vào đêm…
Em mới yêu lần đầu / Anh đã yêu lần sau
(“Chuyện hẹn hò”, Trần Thiện Thanh)
Dường như bài hát nào, câu hát nào cũng được ông phả vào hơi thở đầy cảm xúc (như phả hương vị nồng nàn vào cuộc sống), cũng được ông nắn nót từng chữ từng lời (như người nắn nót, gọt dũa từng chữ từng câu trong lá thư tình viết gửi người mình yêu). Không riêng gì nhạc Trần Thiện Thanh, nghe một bài nhạc tình của ai khác, qua giọng Nhật Trường, cũng dễ nhận ra điều này. “Ngày đó chúng mình” của Phạm Duy chẳng hạn (từng được các ca sĩ tên tuổi thuở ấy như Anh Ngọc, Duy Trác, Thái Thanh… trình bày, mỗi giọng đều có cái hay riêng trong cách thể hiện).
Ngày đó có em đi nhẹ vào đời…
Nghe ông hát “đi… nhẹ vào đời” ta tưởng nghe được tiếng bước chân ai khe khẽ, chầm chậm…
Ngày đôi môi thương môi đã xé nát nụ cười
ôi những cánh tay ngỡ ngàng, tả tơi…
Tìm trong đêm rách rưới cơn mơ nào lẻ loi…
Nghe ông hát “xé nát nụ cười”, “ngỡ ngàng, tả tơi” và “rách rưới… lẻ loi” mới thấy cái cách ông thể hiện tình cảm “nồng nàn và đau đớn” mà người nhạc sĩ ghi ở đầu bài nhạc ấy như thế nào!
Có khi chỉ nghe câu hát đầu tiên của một bài hát, người ta nhận ra ngay ra… giọng Nhật Trường.
Nhớ chiều nào… (ngưng một chút) tôi đến thăm em
(“Mưa chiều kỷ niệm”, Duy Yên & Quốc Kỳ)
Mai tầu xa bến (…) xin em đừng buồn
(“Tâm tình người lính thủy”, Anh Thy & Thanh Viên)
Anh sẽ vì em (…) làm thơ tình ái
(“Lâu đài tình ái”, Trần Thiện Thanh & Mai Trung Tĩnh)
Những chỗ ngưng nghỉ như là… dấu lặng ấy, những chỗ ông hát thật thong thả, thật chậm rãi ấy nghe rất… Nhật Trường. Có lắm lúc ta tưởng như là ông “nói” chứ không phải là “hát” nữa. Có lắm lúc ta nghe ông hát như nghe những chuyện trò nhỏ to hay những lời thủ thỉ tâm tình. Khi ông hát một bài tình ca, những thủ thỉ tâm tình ấy có khi là những xao xuyến, bâng khuâng của trái tim vừa chớm biết yêu.
Ngắt nụ hoa vàng (…) biết rằng mình yêu
(“Yêu”, Trần Thiện Thanh)
Có khi là vẻ đẹp thật mong manh của tình yêu.
Tình yêu như nụ hoa
chỉ nở một lần thôi
chỉ đẹp một lần thôi…
(“Chuyến đi về sáng”, Mạnh Phát)
Có khi là lời tỏ tình thầm kín hoặc đắm say mà những người yêu nhau vẫn thường nói với nhau.
Anh hứa yêu em trọn một đời
yêu như ngày đầu đôi ta chung lối…
Yêu em như trời xanh yêu mây trắng
(“Một đời yêu em”, Trần Thiện Thanh)
Có khi là những lời tình tự nồng nàn, đắm đuối và chan chứa những tình ý yêu đương.
Ta tìm lên núi Tình
ta đến suối Yêu Đương
rồi đi thăm bến Mộng
sẽ qua đồi Ái Ân
(“Khi em nhìn anh”, Y Vân)
Có khi là nỗi đợi chờ và nhớ nhung da diết, như nỗi nhớ trong thơ Hồ Dzếnh.
Thôi em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
để anh buồn như anh chàng làm thơ
Em có hay trời buồn, trời chuyển mưa đó không?
Biết yêu em là biết nghe chờ mong
(“Chuyện hẹn hò”, Trần Thiện Thanh)
Có khi là những lời tình cay đắng nhiều hơn ngọt ngào, những lời tình đẹp và buồn như một nỗi tiếc thương của những lứa đôi yêu nhau mà không đến được với nhau.
Xưa hôn em một lần, rồi đau thương tràn lấp…
Anh xa em thật rồi mà chưa quên mùi tóc…
(“Mùa đông của anh”, Trần Thiện Thanh)
Anh lãng du đêm dài vùng khói mây
hôn tóc em nghe hồn mình đắng cay
(“Tình khúc mùa đông”, Thanh Trang)
Khi biết yêu thì chia phôi
như đóa hoa tàn ban mai
tình yêu đến trong giã từ…
(“Tình yêu đến trong giã từ”, Phạm Mạnh Cương)
Đôi lúc ta ngỡ như ông “nói” chứ không phải là hát, cho đến khi ta nghe được giọng nói của ông trên nền nhạc dạo của bài hát thì đúng là ông… nói thật. Nhật Trường cũng là một trong những ca sĩ đầu tiên sử dụng lối “độc thoại” trên nền nhạc, khiến bài hát nghe “lạ” hơn và cuốn hút hơn. Giọng ông khá diễn cảm, ngọt ngào như rót mật vào tai và ấm áp, dịu dàng như lời… thì thầm bên gối.
“Anh yêu những chân trời tím, mầu tím thắm thiết của yêu đương, của hai đứa chúng mình đi vào tình yêu, đi vào kỷ niệm. Anh sẽ đưa em tới đó, anh sẽ sống bên em như mầu tím và chân trời. Nhưng anh biết, không bao giờ… chúng mình tới đó.”
Lời “độc thoại” ấy ghi ở trang đầu cuốn tiểu thuyết Chân trời tím của Văn Quang và cũng ghi trên đầu bản nhạc cùng tên của Trần Thiện Thanh (1966), lấy ý và nguồn cảm hứng từ tiểu thuyết ấy. “Chân trời tím” là nhạc phẩm hợp soạn giữa Anh Chương (một tên khác của Trần Thiện Thanh) và nhạc sĩ Nguyễn Văn Hạnh. Chi tiết này ít người còn nhớ, có lẽ vì cái tên thứ hai ít được nhắc đến.
Giọng nói ấm áp và diễn cảm trên nền nhạc ấy, những lời hát thật thong thả, chậm rãi ấy, những “dấu lặng” giữa câu hát ấy, những lối nhấn nhá và luyến láy mềm mại ấy, cùng với chất giọng nồng nàn, trữ tình và cách phả hơi thở đầy cảm xúc vào từng lời từng chữ ấy, tất cả, đã làm nên giọng hát đầy “kịch tính” và… “lãng mạn Nhật Trường”.
Nhạc lính, những “bản tình ca thời chiến” Anh bảo em đừng buồn
bao nhiêu ngày hôm nay cho ngày mai…
Bài hát đầu tiên tôi nghe được của Trần Thiện Thanh có những lời như thế. Tôi đã yêu câu hát ấy và yêu giọng hát ấy.
Bài hát có giai điệu tha thiết quá, và giọng hát cũng tha thiết quá, nghe như lời dỗ dành, vỗ về.
Anh nhớ đừng thăm em một ngày chưa yên vui
Mây nước còn chia phôi, thì đừng mơ lứa đôi…
Bài hát ấy là “Anh nhớ về thăm em” (1961), giọng hát ấy là giọng Lệ Thanh, có chút gì nũng nịu và vẻ gì cam chịu nghe đến… tội nghiệp.
Bài hát ấy cũng là bài “nhạc lính” đầu tiên tôi nghe được của Trần Thiện Thanh, và không phải là nghe với giọng Nhật Trường.
Những năm về sau này, Nhật Trường vẫn được nhắc đến như một ca sĩ chuyên hát “nhạc lính” (làm như là từ xưa tới nay ông chỉ có… hát nhạc lính), có lẽ vì tên ông gắn liền với tên Trần Thiện Thanh (Nhật Trường-Trần Thiện Thanh), mà nhạc Trần Thiện Thanh hầu hết đều có “chất” lính tráng. Hầu như trong bất kỳ chương trình văn nghệ lớn nhỏ nào có ít nhiều liên quan tới “lính”, ta thấy các ca sĩ vẫn tìm đến những bài quen thuộc của Trần Thiện Thanh (trong lúc không thiếu những bài “nhạc lính” khá hay của các nhạc sĩ tên tuổi khác). Thậm chí, sau ngày ông qua đời, đôi lúc ta vẫn nghe người dẫn chương trình văn nghệ giới thiệu “ca sĩ X. trong một nhạc phẩm của cố ca nhạc sĩ Nhật Trường-Trần Thiện Thanh”, trong lúc các nhạc sĩ khác đã “quá cố”, trước hoặc sau ông, lại không nghe gọi là “cố”, “cựu” chi cả. Nói điều này cũng để thấy rằng, ông nhận được sự “chiếu cố” đặc biệt từ những tình cảm quý mến và thương tiếc dành cho ông.
Thế nhưng, như thế nào gọi là “nhạc lính”? Chắc phải là những ca khúc viết về đời lính và người lính, về tinh thần chiến đấu anh dũng, về sự hy sinh cao cả, thầm lặng, và về tình yêu của người lính dành cho quê hương đất nước. Những bài nhạc lính ấy có thể được viết nên từ cảm xúc của những người yêu lính, yêu đời lính hoặc từ những nỗi niềm, tâm tình của người lính.
Như thế, liệu nhạc lính (như nhạc Trần Thiện Thanh, đặc biệt là những bài thể điệu bolero, rhumba…) có thể xếp vào loại “nhạc đại chúng” hay “nhạc bình dân” như cách gọi (ngụ ý xem thường, hạ thấp giá trị) của một số người, chỉ vì những bài nhạc hát giữa tiền đồn hay những sân khấu ngoài trời ấy không thể đưa vào được những hí viện, những khán phòng ấm cúng, thanh lịch với những giàn nhạc “tầm cỡ” và với một đối tượng khán thính giả chọn lọc của những “nhạc thính phòng”, những “bán cổ điển”… này nọ, như là những kiểu cách thời thượng. Điều thực sự có ý nghĩa, không phải là bài nhạc được trình diễn ở nơi nào, mà là bài nhạc nào còn ở lại trong lòng người về lâu về dài.
Dù sao thì nhạc lính Trần Thiện Thanh cũng đã được khối “quảng đại quần chúng” ấy thực sự yêu thích, và Nhật Trường, khi hát những bài nhạc lính ấy, ông cũng đã nhắm vào đối tượng chính ấy, như tên gọi một album nhạc của ông trước năm 1975, Hát Cho Lính và Những Người Yêu Lính.
Phân biệt nhạc lính với nhạc tình Trần Thiện Thanh có vẻ không dễ dàng chút nào, cho dù có những bài nhạc chỉ nói về tình yêu mà không hề nhắc nhở, đả động gì tới lính tráng. Dường như người ta ngầm hiểu rằng tình yêu trong bài nhạc ấy là tình yêu của “người lính”, chàng trai trong bài hát ấy là chàng lính chiến, và cô gái là “người yêu của lính”. Và ngược lại, gần như bài nhạc nào viết về lính của ông cũng ít nhiều pha lẫn chút tình riêng.
Làm sao biết được nhạc lính hay nhạc tình? “Không bao giờ ngăn cách” có vẻ là “tình khúc Trần Thiện Thanh”, nhưng lại có “viết tên người yêu lên ba-lô nặng trĩu”. “Chân trời tím” chắc phải là “nhạc tình”, nhưng vẫn có “anh vì lửa khói quê hương, đường hun hút biên cương…” Nhạc tình hay nhạc lính, “Chiều trên phá Tam Giang”, bài phổ thơ Mai Trung Tĩnh? Thơ ấy là thơ tình hay thơ… lính? (Hay thơ tình của người lính?). Nếu là thơ lính thì nhạc ấy phải là… nhạc lính.
Làm sao biết được nhạc tình hay nhạc lính? Những ca khúc ấy, tôi nghĩ, có thể gọi chung là “những bản tình ca thời chiến”.
Những đêm mười sáu trăng tròn
vượt con đường mòn đi giữ làng thôn,
bỗng thấy lòng mình thương quá
thương thuở học trò đi tìm vần thơ…
(“Mười sáu trăng tròn”, Trần Thiện Thanh)
Đấy không phải là bài nhạc lính đầu tiên tôi nghe được, và cũng không phải là bài nhạc lính đầu tiên tôi yêu thích, thế nhưng không hiểu sao tôi rất “chịu” Nhật Trường hát bài ấy. “Mười sáu trăng tròn” (1964) là nỗi niềm của chàng trai thời loạn “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, lên đường theo tiếng gọi của non sông, bỏ lại sau lưng những mộng ước chưa tròn... Bài hát có một vẻ gì lãng mạn của những đêm “trăng treo đầu súng”, của “xếp áo thư sinh, vui bước đăng trình…” Hình ảnh người lính chiến “lênh đênh tám hướng, bạc mầu vai sương áo kết bụi đường” với lời thề sắt son ghi trên báng súng đã gieo vào lòng tôi thuở ấy những cảm xúc dạt dào.
Một người đi, một người ở lại với năm chờ tháng đợi ngày nào người chiến binh trở về khi đất nước yên vui để tay trong tay đi xây lại chuyện tình giữa mùa trăng thanh bình.
Em ơi, khi non nước đang còn
mịt mờ bên phương nớ
thì chuyện đó đừng mơ…
(“Mười sáu trăng tròn”, Trần Thiện Thanh)
“Mịt mờ bên phương nớ”, câu hát nghe là lạ, ngồ ngộ. Tôi thích chữ “phương nớ”, và tôi cũng nhận ra một điều là Nhật Trường hát nhạc lính rất hay, nhạc lính của bất cứ ai chứ không riêng gì của Trần Thiện Thanh (chẳng hạn “Tình anh lính chiến” của Lam Phương, “Tôi đã gặp” của Lê Dinh & Minh Kỳ”, “Biệt kinh kỳ” của Minh Kỳ & Hoài Linh, “Tôi sẽ về thăm em” của Hoàng Nguyên, “Kỷ vật cho em” của Phạm Duy & Linh Phương, “Kể chuyện trong đêm” của Hoàng Trang, “Hành trang giã từ”, “Một lần xa bến” của Trường Sa, “Hoa biển”, “Tâm tình người lính thủy” của Anh Thy…). Nghe lại giọng hát ấy, nghe lại những khúc hát quen thuộc của một mùa chinh chiến ấy, vẫn thấy lòng dậy lên những cảm xúc rất “lính”.
Trong khói lửa chiến tranh, bên cạnh những nỗi bất trắc, tình yêu vẫn nở hoa như những đóa hồng vẫn nở bên những hầm hố và hàng rào kẽm gai. Trong những lời nhạc Trần Thiện Thanh ta nghe được qua tiếng hát Nhật Trường luôn có những “người yêu nhỏ” đợi chờ và dõi theo bước đường hành quân của người lính chiến.
Nơi cuối trời em thắp vì sao,
phiên gác buồn anh vẫn lẻ loi…
(“Lời cho người yêu nhỏ”)
Xa xôi đêm nào xuôi quân dừng chân,
khi trăng rơi bên lều, anh chợt thấy nhớ em yêu...
Như chim trời anh đi xa vắng,
em có thành sao sáng yêu đương
xuyên lá rừng khép nép vai anh…
(“Một đời yêu em”)
Người lính chiến, ngoài ba-lô, súng đạn, còn mang theo bên mình một hình bóng không quên, một nỗi nhớ không rời.
Tình yêu thường xen lẫn thân phận người lính xa nhà, xa người mình thương yêu. Những tâm tình của người lính ta nghe được qua tiếng hát Nhật Trường, là những chuyến về thăm, là những lần về phép, người lính chiến dừng chân trong chốc lát, rồi lại lên đường, lại miệt mài đi khi quê hương còn tiếng súng, khi máu xương còn rơi.
Nụ cười đầu môi anh khẽ nói,
“Về thăm em chiều nay thôi,
sông hồ mai sớm lại đi...”
(“Chiều mưa anh về”)
Nếu ta nghe Nhật Trường hát nhạc tình như hát những lời tình tự của những kẻ yêu nhau thì ông hát nhạc lính như hát những lời tình tự với quê hương của ông.
Tôi thức từng đêm thơ ấu mà nghe muối phả trong lòng…
Tuổi trời qua mau, gió biển mặn nuôi lớn khôn tôi
nên năm hăm mốt tuổi
tôi đi vào quân đội mà lòng thì chưa hề yêu ai…
(“Biển mặn”)
“Biển mặn” là tình yêu của người lính dành cho quê hương mình. Tôi vẫn cho “Biển mặn” là một trong những bài nhạc lính hay nhất của Trần Thiện Thanh. Nghe “Biển mặn” là nghe lời tình tự dân tộc từ một trái tim nặng trĩu tình yêu quê hương. Quê hương ở đây là biển cả, là “mẹ trùng dương”, là vị mặn mà của muối biển, là vị mặn nồng của gió biển, là màu xanh của ruộng đồng, của biển rộng sông dài. Và tiếng hát Nhật Trường, và giai điệu dìu dặt ấy, như tiếng sóng vỗ rì rào, như tiếng suối nguồn róc rách, như tiếng sông hiền hòa xuôi chảy qua từng miền đất nước, thấm vào từng mạch đất quê hương.
Người yêu tôi hay khóc trong chiều mưa
lúc mầu xanh biển mặn đục sắc mây
Trong bao lần quân hành, tôi qua vùng khô cằn
mồ hôi thành biển mặn trên môi
Những giọt mồ hôi rịn trên môi người lính trong cái nóng cháy da vùng hành quân như có vị mặn của muối biển quê mình. Có hình ảnh nào đẹp hơn, ý nghĩa hơn? Nghe “Biển mặn”, ta nghe tình lính, tình riêng, tình quê hương đất nước quyện lẫn vào nhau.
Nhạc lính, không chỉ ngợi ca những chiến tích làm vẻ vang màu cờ sắc áo, còn ngợi ca những người lính can trường, những người lính đã hy sinh cả máu xương mình cho tình yêu đất nước, những người lính “nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây”. Bài đầu tiên Nhật Trường hát ngợi ca người hùng trong cuộc chiến là một bài của Phạm Duy, “Huyền sử ca một người mang tên Quốc”. Giọng hát ông và cách ông thể hiện tình cảm của bài hát đã truyền tới người nghe những cảm xúc rưng rưng.
đặt tên cho anh, anh là Quốc
đặt tên cho anh, anh là nước
đặt tên cho người, đặt tình yêu nước vào nôi
Tôi tin rằng bài ấy ít nhiều đã gợi hứng cho những sáng tác về sau này của ông nhằm vinh danh tên tuổi những người hùng đã hy sinh trong chiến trận. Hai bài được nói đến nhiều nhất trong số ấy là “Anh không chết đâu em” và “Người ở lại Charlie”, và giọng hát Nhật Trường quả tình đã gieo vào lòng người sự ngưỡng phục và mối xúc cảm đến rơi nước mắt về những thiên anh hùng ca của dân tộc.
“Không, chiến sĩ không bao giờ chết,” câu nói bình dị của Nhật Trường trong vở nhạc kịch ông diễn chung với Thanh Lan (“Anh không chết đâu em”) như nói với ta rằng ngọn lửa bất khuất và ý chí đấu tranh kiên cường không bao giờ tắt trong tim những người lính.
Pho tượng lính và “anh chiến sĩ của mộng mơ” Hình tượng người lính chiến, qua tiếng hát Nhật Trường, qua những ca khúc Trần Thiện Thanh, như trở nên gần gũi hơn, thân thiết hơn với quần chúng. Lý tưởng của những chàng trai thời loạn hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn, sắc nét hơn. Người đời, qua đó, thấy yêu mến, thấy cảm kích những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh vì nước quên mình.
“Nhạc lính” mà ta nghe được trong những lời ca tiếng hát Nhật Trường không sắt máu, không hận thù mà chỉ có những…
Nếu anh có về khi tàn chinh chiến
xin em cúi mặt dấu lệ mừng nghe em…
(“Tạ từ trong đêm”),
và những…
Nếu một mai khi hòa bình
anh sẽ trở về như giấc mơ
cho từng ngón tay đan lại ái ân ngọt mềm
mình yêu nhau như khi vừa mới biết nghe em…
Từng đêm không còn tiếng súng
ngủ đi em, ngủ cho yên…
(“Lời cho người yêu nhỏ”)
“Lời cho người yêu nhỏ” là bài hát nói về những giấc mơ, những nỗi khát khao của những người lính, những người tình. Người nhạc sĩ ấy, người ca sĩ ấy, ông có mơ mộng lắm không?...
Nhật Trường, ông từng có những giấc mơ như vậy, ông từng hát về những giấc mơ như vậy. Hạnh phúc, trong những câu hát của Nhật Trường, vẫn luôn là những nỗi đợi chờ, những niềm khát khao. Hạnh phúc ấy, tiếc thay, như những giấc mơ không đến bao giờ... Tất cả vụt biến mất. Cơn bão của lịch sử năm 1975 đã vùi dập phũ phàng, đã nhận chìm và cuốn phăng đi tất cả. Hạnh phúc ấy mãi mãi chỉ là những giấc mơ. Những giấc mơ rạn vỡ, những giấc mơ ngậm ngùi.
Nhật Trường, ông đã sống cùng những giấc mơ đó, đã chết cùng những giấc mơ đó. Cho đến những phút cuối của cuộc đời ông vẫn chưa hề từ bỏ những giấc mơ đó.
Sau ngày ông mất, trong lúc xếp dọn lại đồ đạc trong kho, tình cờ tôi đọc được một mẩu tin trong chồng báo cũ, thật cũ. Mẩu tin ngắn, tôi chắc ít người để ý:
“Nhật Trường Hát Rong Gây Quỹ Xây Tượng Đài
Quận Cam: Trưa Chủ Nhật 27/2/2000 vừa qua, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tức ca sĩ Nhật Trường đã tự thực hiện một chương trình văn nghệ ‘hát rong’ trên đường phố Bolsa để gây quỹ xây dựng Tượng Đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ. Cùng tham dự chương trình văn nghệ thiện nguyện này có nhạc sĩ Xuân Điềm và ca sĩ Mỹ Lan.
Đội chiếc nón rừng có in cờ Việt Nam Cộng Hòa và với quân phục tác chiến, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, cựu quân nhân Quân Lực VNCH, đã ôm tây ban cầm đi giữa đám đông và hát một số nhạc phẩm nổi tiếng của ông.
Có khoảng một ngàn đồng hương đã cùng tham gia với nhạc sĩ, ca sĩ tên tuổi này. Buổi hát xuống đường gây quỹ của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh kéo dài đến 5 giờ 30 chiều, tổng số tiền thu được là 15,418.000 mỹ kim.”
(Nhật báo Việt Báo, Calif., 29/2/2000)
“Buổi hát xuống đường” hay “chương trình văn nghệ ‘hát rong’” của Nhật Trường đã thu hút khoảng 1,000 khán giả đồng hương người Việt và quyên góp được trên 15,000 mỹ kim. Những con số không lớn không nhỏ. Chỉ là những con số, nhưng ít nhiều cũng đã thể hiện ý nghĩa công trình mà ông và những bạn đồng hành của ông muốn thực hiện cho bằng được: chiến tranh đã đi qua, nhưng hình tượng hào hùng của người lính chiến vẫn còn sống mãi, vẫn không bao giờ nhạt phai trong tâm tưởng người đời.
Mẩu tin ấy cũng làm tôi nhớ một chuyện nhỏ, chuyện nhỏ thôi nhưng có làm tôi và nhiều người xúc động: Nhật Trường, trong những phút cuối đời, những phút chạm tay vào lằn ranh sống, chết, đã dặn dò người thân trong gia đình cho ông được một lần cuối ngắm nhìn “Tượng đài chiến sĩ Việt-Mỹ”, được một lần cuối trông thấy tận mắt ước mơ cuối đời của ông–của chàng nghệ sĩ khoác cây đàn lên vai làm người hát rong trên đường phố để thu nhặt từng đồng bạc nhỏ cho công trình ấy–sau cùng đã thành tựu.
Gần ba mươi năm sau ngày chiến tranh kết thúc, trên mảnh đất của người Việt tỵ nạn này, tượng đài chiến sĩ ấy đã mọc lên, ngọn lửa vĩnh cửu ấy đã cháy lên, để vinh danh những người lính từng có một thời chiến đấu bên nhau cho những lý tưởng cao đẹp mà họ thực sự tin tưởng.
Tượng đài hai người lính Việt và Mỹ lặng yên đứng bên nhau, lặng yên dõi mắt nhìn về phương xa như trông đợi, như tìm kiếm những đồng đội của mình… đi mãi không về.
Tượng đài hai người lính lặng câm ấy là tượng đài của những hy sinh thầm lặng, là tượng đài của lòng ngưỡng phục, của niềm tự hào và nỗi tiếc thương.
Những thế hệ hôm nay và mai sau, những đứa bé sinh ra sau chiến tranh, những đứa bé sinh ra trên quê hương thứ hai này, như đứa bé con trai ông, mai kia lớn lên, những lần về qua nơi ấy, đứng dưới chân tượng đài ấy, ngước mắt nhìn pho tượng hai người lính lặng câm ấy, sẽ hiểu được vì sao người cha thân yêu của mình, trong “giây phút tạ từ” cuộc sống tươi đẹp, vẫn ước ao được ghé thăm một lần cuối, được đưa tay chào một lần cuối pho tượng hai người lính ấy.
Sau ngày Nhật Trường lìa đời, người ta nhắc nhiều đến ông, nói nhiều về ông (hơn cả lúc ông còn sinh thời). Nhiều bài báo, nhiều chương trình phát thanh, phát hình, văn nghệ, ca nhạc… ngợi ca và tôn vinh ông, như một việc làm, một thái độ trân trọng của quần chúng dành cho người từng có những cống hiến lớn lao và ý nghĩa cho cộng đồng, cho xã hội đương thời. Có điều, nhiều phần người ta nói về ca khúc này, ca khúc kia của Trần Thiện Thanh hơn là nói về tiếng hát của người ca sĩ đã làm cho những ca khúc ấy được người đời biết đến và yêu thích.
Trong một chương trình ca nhạc DVD tôi được xem qua (Asia 50 – Anh Không Chết Đâu Anh / Nhật Trường-Trần Thiện Thanh, Tình Yêu, Cuộc Đời và Sự Nghiệp), tiết mục tôi “chịu” nhất là phần trình diễn của nhóm ca sĩ trẻ, những ca sĩ sinh ra hoặc lớn lên ở hải ngoại, nghĩa là ra đời sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc. “Tình thư của lính”, ca khúc được các em trình diễn là một bài “nhạc lính” của Trần Thiện Thanh mà ngày xưa Nhật Trường vẫn hay “khoác áo treillis” trình diễn trên các sân khấu, và rất được tán thưởng. Các ca sĩ mới mẻ, trẻ trung này có thể không hiểu gì nhiều lắm về cuộc chiến mà máu xương của thế hệ cha anh các em đã đổ xuống, và cũng chưa hề trải qua một ngày nào đời sống quân ngũ; thế nhưng, các em đã “cảm” được bài nhạc ấy cách nào đó, đã hát thật say sưa bài nhạc ấy bằng nhịp điệu vui tươi, bằng tiết tấu sôi động trong hoạt cảnh các chàng lính trẻ “vui đời quân ngũ”. Các “chàng lính trẻ” ấy đã hát hay… không thua gì Nhật Trường.
Nhiều tên trong đơn vị gọi đùa “anh chiến sĩ của mộng mơ”…
Trong một thoáng, tôi “bắt” được câu hát ấy, và trong một thoáng tôi đã nhận ra anh, nhận ra Nhật Trường, nhận ra Trần Thiện Thanh. Anh phải là “anh chiến sĩ của mộng mơ” trong câu hát ấy. Các ca sĩ trẻ trung ấy, thế hệ tiếp nối ấy, đã gọi tên anh như vậy.
Tiết tấu nhộn nhịp của bài hát ấy, những khuôn mặt rạng rỡ ấy, những ánh mắt tươi vui ấy và những bước nhảy sinh động ấy tựa hồ những bàn chân tiếp bước những bàn chân, những thế hệ tiếp nối những thế hệ, rộn ràng theo nhau lên đường đi xây lại những ước mơ chưa thành tựu của những người đã nằm xuống cho một ngày mai tươi sáng về trên quê hương.
Nỗi mất mát, thiệt thòi lớn nhất sau cái chết của Nhật Trường-Trần Thiện Thanh là chúng ta mất đi một lúc đến hai con người nghệ sĩ, một ca sĩ và một nhạc sĩ, rất gần gũi với quần chúng và rất được quần chúng yêu mến. Những mất mát, thiệt thòi ấy làm sao có thể bù đắp được!
Nhật Trường, hay Trần Thiện Thanh, ông không dễ gì chết được, không hẳn là theo cách mà người ta vẫn gọi ông, “Anh không chết đâu anh”, mà bởi vì ông vẫn sống cùng với những bài hát của ông, cùng với tiếng hát của ông. Những bài hát vẫn còn ở lại cho dù người nhạc sĩ ấy, người ca sĩ ấy đã đi xa. Những bài hát mỗi lần nghe cất lên từ giọng hát nào là mỗi lần người ta lại nhớ đến ông, lại nhớ đến tiếng hát ông, và lại nói với vẻ tiếc nhớ, ngậm ngùi, “Bài này không ai hát qua được Nhật Trường”. Và cứ mỗi lần nghe nhắc đến tên ông như thế, ta cứ ngỡ như ông vẫn còn quanh quẩn đâu đây, ngỡ như ông vẫn còn ở với chúng ta, như là một câu hát của ông vẫn được nhiều người nghe, nhiều người hát, “Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính”.
Cám ơn Nhật Trường, cám ơn tiếng hát đã gợi nhớ trong ta những kỷ niệm ấm áp về những ngày vui mơ hồ và những tháng năm tươi đẹp.
Đối với những người từng có một thời yêu thích những khúc hát Trần Thiện Thanh, từng có một thời rung cảm vì giọng hát Nhật Trường, có lúc nào bất chợt nghe lại giọng hát nồng nàn, tha thiết ấy cất lên đâu đó, ngỡ như bất chợt lật lại những trang sách cũ, lòng bồi hồi gặp lại những bông hoa ép khô của một mùa kỷ niệm. Những khúc hát êm đềm và quen thuộc ấy luôn đánh thức trong ta những giấc mơ ngọt ngào, luôn gợi lại trong ta nỗi tiếc nhớ xa xôi về tiếng hát của một mùa nào lãng mạn.
Rồi đến một chiều phai nắng…
lê hữu