Độc giả miền Nam biết đến Nhã Ca với bài thơ Nhã Ca Thứ Nhất ký tên Trần Thy Nhã Ca đầu thập niên 1960. Nhưng trước đó, giữa thập niên 1950, thuở học trò, Nhã Ca đã có thơ đăng trên các tuần báo văn nghệ học sinh, Văn Nghệ Tiền Phong ở Saigon ký tên thật là Thu Vân. Năm 1964, thơ được in thành tập Nhã Ca Mới, được trao Giải Thi Ca Toàn Quốc năm 1965. Giải văn toàn quốc Giải Khăn Sô Cho Huế năm 1969.
Tên tuổi Nhã Ca được yêu mến, bà nổi tiếng khắp miền Nam.
Theo nhà biên khảo Đặng Tiến, cái gọi được là thơ trong Nhã Ca, trước hết là một không gian.
Sân chiều chao nhẹ dăm tờ lá
Và khói sương về cuộn cánh song
Buổi chiều xa xưa ở đây không còn hiu hắt như trong Huy Cận hay đằm thắm như trong Xuân Diệu. Buổi chiều của Nhã Ca chao nhẹ, chao thật nhẹ như trong Nhất Linh. Những buổi chiều vô cùng mịn màng, óng ả, mềm mại, dìu dặt… mà đặc biệt trong thơ Nhã Ca mới có.
Ngày cũng vừa xanh dáng tịch liêu
Đường xa sầu tiếp với cây chiều
Bầy chim én cũ qua thành phố
Về gọi thời gian vỗ cánh theo
Thôi trả cho dòng sông tối đen
Trả cho người đó nỗi ưu phiền
Còn đây chút tủi hờn thơ dại
Rồi cũng xa vời trong lãng quên
Thiếu nữ thời ấy-thập niên 1960 rất yêu truyện của Nhã Ca. Văn Nhã Ca nhẹ nhàng và đẹp như một bài thơ. Nhân vật chính trong các truyện đa số là những cô bé học sinh mới lớn, nhiều mơ mộng. Khung cảnh trong truyện vẫn là một góc thành phố, một góc sân trường, một thế giới nhỏ bé, nhưng vẫn xảy ra những biến động quay quắt, những uẩn khúc bi thương...
......
Nữ sĩ Nhã Ca là đại diện xứng đáng của nền văn chương nghệ thuật thời Việt Nam Cộng Hoà: nhân bản, có đôi chỗ nổi loạn, và thường bàng bạc nỗi ưu tư cho thân phận nước nhà. Nhìn Nhã Ca, đọc Nhã Ca, người ta có thể bắt gặp lại gương mặt hằng trăm, thậm chí hằng ngàn văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà, những người đã góp sức dựng nên một nền văn nghệ đặc sắc, giàu sáng tạo, và đậm chất Việt chỉ trong khoảng 20 năm ngắn ngủi, với nhiều tác phẩm đến nay đọc lại, nghe lại, xem lại vẫn khiến người ta bồi hồi thổn thức.
Sau đây là bài viết của DU TỬ LÊ:
Với bút hiệu Trần Thy Nhã Ca, thơ Nhã Ca xuất hiện lần đầu trên tạp chí Hiện Ðại, số ra mắt, của nhà thơ Nguyên Sa chủ trương. Cũng ở số ra mắt đó, tác giả “Áo Lụa Hà Ðông” đã dành cho thơ Trần Thy Nhã Ca vị trí trang trọng nhất.
Người đọc cũng như một số anh chị em văn giới thuở đó, xao xác hỏi nhau:
“Trần Thy Nhã Ca là ai?
“Ai là Trần Thy Nhã Ca?”
Những câu hỏi được cất lên nhiều thêm nữa, khi những bài thơ kế tiếp của bà, càng lúc càng dội vang xa hơn.
Nhà thơ Thành Tôn, người hiện có trong tay tạp chí Hiện Ðại số 1, cho biết, ba bài thơ đầu tiên của Trần Thy Nhã Ca là: “Bài Nhã Ca thứ nhất”, “Ngày Tháng Trôi Ði” và, “Thanh Xuân.”
“Bài Nhã Ca Thứ Nhất” là một bài thơ 4 chữ, có những đoạn như:
Tôi làm con gái
Buồn như lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày
Tôi làm con gái
Một lần yêu người
Một lần mãi mãi
Bao giờ cho nguôi
Tôi làm con gái
Bao nhiêu tuổi đời
Bấy lần thơ dại
Buồn không ai...
... hay. (1)
“Ngày tháng trôi đi” là một bài thơ 7 chữ:
Ngày cũng vừa xanh dáng tịch liêu
Ðường xa sầu tiếp với mây chiều
Bày chim én cũ qua thành phố
Về gọi thời gian vỗ cánh theo
Thôi trả cho dòng sông tối đen
Trả cho người đó nỗi ưu phiền
Còn đây chút tủi hờn thơ dại
Rồi cũng xa vời trong lãng quên
Mắt dõi theo vừa ngút bóng cây
Ðời chia dăm bảy dấu chân bày
Tôi hồn vẫn đứng im như tượng
Trông tháng ngày đi trên cánh tay.
(Trọn bài) (1)
Và đây, trích đoạn bài “Thanh Xuân”:
Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây
Người đi chưa dạt dấu chân bày
Bày tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ cây
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười
Ðời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh em cũng tợ sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ.” (1)
Tính tới đầu đầu thập niên 1960, trong sinh hoạt văn học miền Nam, chúng ta có rất ít nhà thơ nữ. Ðã thế, họ lại thường không nói về phía khuất lấp của thân, tâm mình.
Tình yêu, nếu được họ đề cập đến, dẫu thừa thãi những tính từ chỉ tính chất cô đơn, sầu muộn, hoặc những hình ảnh lãng mạn đã sáo mòn thì, chúng cũng vẫn giống như thể họ đang nói xa xôi, mơ hồ, quanh co về một phần số hẩm hiu, một thất lỡ, vay mượn chuyện tình từ một nữ lưu nào đó, trong đời thường!
Trần Thy Nhã Ca không vậy! Thơ bà xuất hiện, như tiếng nổ lớn của một khối thuốc nổ TNT.
Ngay tự những dòng thứ nhất của bài thơ thứ nhất, tác giả đã tự giới thiệu, không chỉ giới tính mà còn là “tiểu sử” đời mình một cách trực khởi. Tự tin. Không mặc cảm:
“Tôi làm con gái
Bao nhiêu tuổi đời
Bấy lần thơ dại
Buồn không ai hay.”
Với số chữ ít oi của thể thơ 4 chữ (bằng nửa số chữ thể thơ 8 chữ,) nhưng mỗi con chữ trong đoạn thơ tôi vừa lập lại của Trần Thy Nhã Ca lại có khả năng tự bào phân ở cấp số nhân, để cái hình hữu hạn này khơi dẫn tới tượng mênh mang của những chân trời nắng, gió lênh đênh cảm thức hiu quạnh, mới.
Cũng thế, ở bài thơ thứ hai, trừ một hai câu mang âm hưởng thơ Huy Cận (như câu “đường xa sầu tiếp với mây chiều”,) thấp thoáng trong bài thơ là những nhát chém không hình tích của những lát dao chữ nghĩa và, hình ảnh xẻ dọc toàn cảnh:
“Bầy chim én cũ qua thành phố
Về gọi thời gian vỗ cánh theo.”
Hoặc:
“Tôi hồn vẫn đứng im như tượng
trông tháng ngày đi trên cánh tay”...
Với tôi, là những cánh cửa hé mở cho thi ca miền Nam thời kỳ đó, một chân trời khác.
Bước vào bài thứ ba, bài cuối cùng trong loạt bài đầu tiên của Trần Thy Nhã Ca, với những câu như:
“Bàn tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ cây.”
Hoặc phỏng, rát hơn với hai câu mà, mỗi chữ tựa một hòn than vừa bén lửa:
“Khi về tay nhỏ che trời rét
nghe giá băng mòn hết tuổi thơ.”
Với tôi, chừng đó ngôn ngữ, chừng đó hình ảnh và sự điêu luyện trong nghệ thuật diễn tả, đã đủ khẳng định, đủ định hình chỗ đứng của tài hoa thi ca này.
Tôi không biết trước khi có cho mình bút hiệu Trần Thy Nhã Ca, tác giả đã có cho mình bao nhiêu bút hiệu?
Tôi cũng không biết tác giả làm quen với thi ca từ năm nào? Bao nhiêu tuổi? (2)
Chỉ biết tôi đã lặng, điếng như một nạn nhân bất lực, chới với giữa hai đối cực:
Cực tiểu là hình ảnh bàn tay quá mức nhỏ bé của con người, theo phản ứng tự nhiên, tuyệt vọng như chống trả cái cực đại là thời tiết (cái rét,) hay thiên nhiên.
Với 14 chữ, Trần Thy Nhã Ca tự thú (một cách buồn bã , bản chất “con tin,” tính thất lạc của thân phận con người trước thiên nhiên, trong dòng chảy thời gian, bất tận.
Tôi vẫn cho rằng, thời tiết (hay thiên nhiên,) nơi chốn... tự nó vốn trung tính, hoặc vô ký. Nếu chúng có mang một linh hồn, một ý nghĩa nào đó, thì phần linh hồn, phần ý nghĩa kia, do con người, do chúng ta mặc, khoác cho chúng.
Từ đó, với tôi, cái rét (thời tiết) trong thơ Trần Thy Nhã Ca, không chỉ là một ẩn dụ (metaphor) hay một hoán dụ (metonymy) cho một trạng thái tình yêu mà, nó còn là một thực chứng bơ vơ, thất lạc của bà trước thiên nhiên.
Nói cách khác, đó là thân phận không thể chối bỏ của định phận người nữ, với kết cuộc vốn là bôi xóa, lãng quên trong dòng chảy nhân quần!
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ dễ dàng hơn, có được cho mình câu trả lời:
- Tại sao thơ Nhã Ca, lại đầy rẫy những đối kháng dữ-dội-buồn-thảm, khi bà luôn tự nói về mình, như một sinh vật có khả năng bật sáng những ngọn đèn tâm thức nghìn nến, để soi thấu đáy tầng vô thức thân phận mình?
Những bài thơ kế tiếp của Trần Thy Nhã Ca, càng thêm xác tín cho sự hiện hiện rực rỡ của bà trong dòng văn học 20 năm miền Nam Việt Nam. Chúng mở ra và, đi đến những chân trời chưa một người làm thơ nữ nào thời đó, bước tới.
Một trong những bài thơ kế tiếp của Trần Thy Nhã Ca được nhiều người nói tới, là bài “Tiếng Chuông Thiên Mụ”. Bài thơ ghi lại “biến cố” bà bỏ nhà ra đi năm bà mới 19 tuổi.
Có người cho rằng, thơ Nhã Ca mà bài “Tiếng Chuông Thiên Mụ” là một thí dụ; ra đời trong bối cảnh miền Nam Việt Nam thập niên 1960 đã được “giải phóng,” không còn bị truyền thống đạo lý, xã hội khắt khe cấm kỵ. (Vì thế) bà mới dám mạnh mẽ tự chọn tình yêu, chọn sống cuộc đời cho riêng mình...
Nhận định này, tuy chỉ để đưa tới những ngợi ca sự can đảm của Trần Thy Nhã Ca; Nhưng với tôi, nó lại không chỉ là một nhận định hời hợt vì chưa hay, không hề đọc kỹ thơ Nhã Ca mà nó còn làm giảm rất nhiều tính cương cường, lẫm liệt, đối đầu xã hội và, luôn cả những nghĩ lại chua chát, thất vọng, ê chề... trong đôi phút nào đó, nơi thẳm sâu tâm hồn người nữ, thi sĩ này nữa.
Bài thơ vừa kể, mở vào bằng những câu vẫn mang tính tự giới thiệu (hay tự khẳng định) thân thế mình:
“Tôi lớn lên bên này sông Hương - Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ - Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ - Cửa từ bi vồn vã bước chân sông - Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng - Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn - Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn - Những sáng chim chiều dế canh gà - Tiếng chuông buồn vui dợn thấu trong da - Người với chuông như chiều với tối.”
Từ bối cảnh “Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ” với “Cửa từ bi vồn vã bước chân sông,” bà đi tới một chọn lựa gây ái ngại hay hoảng hốt, lo lắng cho bất cứ bậc phụ huynh nào, thậm chí, cả những người trẻ, ở tuổi bà, thuở ấy nữa.
Nhưng với bà thì, dường như đó là sự chấp nhận một hò hẹn bất trắc với trăm năm hay, một thách đố với định mệnh:
“Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi - Ðêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông - Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn - Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy - Tiếng chuông đến chỉ một mình tôi thấy - Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan - Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em - Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền - Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố.”
Và đây là phần ê chề, thất vọng của tác giả, như tôi mới viết ở trên:
“Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời - Ðổi họ thay tên viết văn làm báo - Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo - Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư - Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sa mù - Dòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục - Con đường cũ nghe trong hồn cỏ mọc - Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da (...)Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay - Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay - Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ - Cho con trở về đứng mê sảng ngó.” (1)
Nhưng với tôi, hai câu thơ trong bài “Bài Tháng Sáu,” không được nhiều người nhắc “Tôi đã biết tội thân làm con gái - Ðời không thương tất cả héo khô dần” (1) - Mới thực sự cho thấy tài năng ngoại khổ của tiếng thơ này.
Tôi không nghĩ khi viết xuống hai câu thơ trên, Trần Thy Nhã Ca muốn khai triển hoặc, ứng dụng cái tương quan hữu cơ giữa tâm và, sinh lý.
Tôi cũng không nghĩ một nhà thơ phái nam, dù tài hoa nhất mực, có thể cảm nghiệm được sự héo hon, đưa lần tới héo khô những cơ phận trên thân thể người nữ! Một khi nâng niu, săn sóc, thương yêu, ân cần rời bỏ họ. Như những con sóng cấp bảy, cấp tám thình lình rút xa, rất xa bờ cát.
Cảm thức bị lãng quên, bị vất lại, bị bỏ xó... luôn là cảm thức sâu kín, trầm trọng nhất của bản năng người nữ. Nó thường dẫn dắt thân, tâm người nữ tới những kết luận hay chọn lựa cực đoan. Tận. Tuyệt.
Tôi nghĩ, bà viết như một thốt kêu tự nhiên, của con chim thương tích. Lẻ bạn.
Tôi cho, đó là một thứ cảm-tính-chỉ-riêng-thi-sĩ.
Và, vì thế, câu thơ lớn lao. Nó như ngọn núi sừng sững (nhiều phần chênh vênh), giữa biển khơi và, vực thẳm.
Chú thích:
(1) Theo “Nhã Ca Thơ” Vietbook, USA, Calif. xuất bản, 1999.
(2) Gần đây, khi sưu tầm tài liệu cho bài viết của mình, tôi tình cờ đọc được một trích dẫn, ghi lại lời kể của Nhã Ca. Bà cho biết, với bút hiệu khác, bà đã cho đăng thơ, văn rất sớm, trên tờ Văn Nghệ Học Sinh của Lê Bá Thảng, khoảng giữa thập niên 1950.
Khi đó, nhà thơ Trần Dạ Từ, người bạn đời của bà sau này, phụ trách phần bài vở.
http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=20895
TRUYỆN NHÃ CA
http://vantuyen.net/index.php?view=author&id=37
ĐỌC ONLINE
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6221&rb=08
Bìa Giai phẩm Văn
số đặc biệt “Năm Nhà Văn Nữ nổi tiếng nhất của văn chương tiểu thuyết hiện nay”
Trang 2 (Bìa trong) Giai phẩm Văn
số đặc biệt “Năm Nhà Văn Nữ nổi tiếng nhất của văn chương tiểu thuyết hiện nay”
Túy Hồng
Trùng Dương
Nhã Ca
Nguyễn Thị Hoàng
Nguyễn Thị Thụy Vũ
NHÃ CA - MỘT XUẤT HIỆN RỰC RỠ CỦA VĂN HỌC MIỀN NAM
http://www.dutule.com/D_1-2_2-105_4-3576_15-2/