Không gì khác hơn là tôi phải đồng ý với những cảm nghĩ này...
"Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, tháng 4/1975 như vết nước mắt loang dài của miền Trung ngắn dần đi khi dân chúng di tản vào Nam kiệt sức đến không còn nước mắt khóc cho những xác người ven đường. Khóc cho nhà cửa vườn tược bỏ lại bị thiêu cháy, cho ruộng nương hoang tàn, cho trâu bò lạc lõng bơ vơ như thân phận của chính mình giữa dòng người chạy loạn.
Gia đình tôi như số đông dân Quy Nhơn chạy vào đến Tuy Hòa, rồi ráng qua được đèo Cả vào đến Nha Trang, lê lết thêm một quãng nữa đến Cam Ranh là hết sức. Chân phồng lên vì dộp. Mi mắt phồng lên vì mất ngủ, chúng tôi như những bóng ma của chiến tranh mang trong óc trí não phồng lên vì lo lắng. Chiến tranh có quy luật của loạn lạc. Chiến tranh Việt Nam có quy luật riêng: Dân không chạy ngược lên phía Bắc mà luôn chạy vào Nam. Xuôi Nam, là tìm đường sống, là tìm tự do, dù trên danh nghĩa được giải phóng.
Gia đình tôi cũng vậy. Chạy tất tả bờ bụi, ngay sau khi vỡ mặt trận. Mỗi ngày các chuyến xe đò và quân xa dồn dập đổ dồn về bến xe chính thị xã thải ra những con người lầm than, màn trời chiếu đất. Dân đất Quảng liều chết vượt đèo Hải Vân vô cho được Quy Nhơn. Hải Vân như rặng núi thiên nhiên chống đỡ, biết có ngăn được nguy biến cho chúng tôi? Ba tôi ở Phòng Thông tin về thất thần, tin Đà Nẵng mất như quả bom nổ giữa nhà. Thế là hết, Đà Nẵng, thành phố lớn nhất miền Trung sụp đổ, là vỡ mặt trận. Tuổi mười hai tôi hiểu: Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Đức Phổ liên tiếp vỡ mặt trận. Đức Phổ là đã sát Tam Quan, Hoài Nhơn, Bồng Sơn. Là đã vào đến Bình Định. Dân Quy Nhơn chỉ còn biết chạy. Gồng gánh, bồng bế nhau chạy theo đoàn người lam lũ mà mới hôm qua chúng tôi hãy còn xót thương, gói ghém thức ăn giúp đỡ khi họ lây lất nằm ngồi trên vỉa hè thị xã. Giờ chúng tôi thành họ, bỏ nhà cửa nhập vào cái đuôi rồng rắn dài ngoằn thậm thược bò trườn về phía Nam. Phía Nam… thật xa như biển Thái Bình vỗ sóng. Phía Nam… ở cuối chân trời còn trong xanh như giấc mơ tuổi thơ. Phía Nam mang hình ảnh hiền hoà thanh bình của những đồng ruộng miền Tây, của lộng lẫy Sài Gòn làm tuổi thơ tôi nô nức. Vâng, tôi hãy còn nhỏ, còn là cô bé đệ thất hóng chuyện người lớn, lo âu theo nỗi lo cha mẹ, sợ hãi theo nỗi sợ hãi của các anh chị, học lóm các danh từ quân sự từ miệng chú bác. Tuổi thơ chiến tranh trong Nam không hực lửa dữ dội như tuổi thơ miền Bắc mà êm đềm dịu lành như miền Nam, tuy chiến tranh xảy ra ở đây, nhưng những người lính Cộng hòa bảo vệ chúng tôi được yên bình. Đến tháng 4/1975, tôi sống trong sự an lành bấp bênh này.
Qua khỏi Nha Trang, gia đình tôi vào tạm trú trong cư xá Cam Ranh. Dừng lại vì đuối sức. Để thở. Để hô hấp. Để kịp nhìn quanh xác định vị trí thân phận gia đình mình giữa dòng loạn lạc, là điều cha mẹ đánh liều, vì các con hết sức, vì không biết làm gì khác. Cả nhà đã đuối. Tôi kiệt sức. Tôi muốn lả. Tôi uống ca nước mưa trong cư xá tìm vị nước mưa của quê hương mát lịm ngọt ngào.
Buổi chiều hôm ấy thật căng thẳng. Tôi còn nhớ tin quân giải phóng bị chận ở đèo M’Drak không cho xuống Khánh Dương tràn xuống miền duyên hải làm cả khu cư xá hân hoan, lên tinh thần. Rồi vụt đến tin lính mình tan hàng. Tôi chưa biết tan hàng là gì, nhưng nhìn gương mặt người lớn âu lo chùng xuống, tôi biết tin không lành. Ba mẹ tôi bằng mọi cách muốn con mình phải sống.
Sống, nên mấy chị em tôi đóng cửa ở trong nhà như ba mẹ dặn. Cả hai đi đâu chúng tôi không được quyền biết, chuyện người lớn, chiến tranh là của người lớn, nhưng chính chúng tôi đang cùng sống chiến tranh với họ. Thỉnh thoảng tôi len lén nhìn qua khe cửa. Cư xá vẫn náo động, nhưng tôi muốn nhìn ra bên ngoài, qua vách tường thấp trông ra mặt hè phố. Chị tôi la, mở cửa sổ cho chị, chị ngộp thở quá. Nhà gì mà kín mít. Được phép, tôi mở toang cửa sổ. Cảnh tượng ập đến như phim chiến tranh. Tôi gọi chị ra xem. Tôi la: Chị ơi, lính của mình vứt quân phục đầy đường rồi, họ quăng giày bốt trên vỉa hè… Chị lao tới, chị cũng sững sờ, những người lính oai hùng hôm qua, những người lính điển trai sạm nắng, đàn ông tính và hiên ngang làm những thiếu nữ như chị mơ ước…
Tôi giật thót, khi nghe tiếng gõ cửa. Ba tôi trong khung cửa, ba trở về với một người lính trẻ thất thần, hối hả cởi quân phục, gần như muốn lột da anh để không ai biết da anh từng rằn ri lúc trước. Anh tháo hối hả áo trận, áo thun xanh lục bên trong, vứt thẻ bài tiếp tục lấp lánh trong góc tối rồi anh vội vã xin chúng tôi bộ quần áo. Anh còn trẻ lắm, chắc vừa xong tú tài. Tôi ngắm anh xương xương, tóc ngắn, da ngăm nhưng còn tươi nét thị thành, anh không phải là nông dân, mà phải xuất thân thành phố. Tôi luýnh quýnh lấy đồ dân sự đưa cho anh.
Người lính vứt xuống ba lô đầy bụi đất. Bộ sách English for today của Lê Bá Kông rơi ra đất. Trọn bộ 6 quyển và thêm 5 cuốn tập san Văn. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy tập san Văn. Thật ra tôi vẫn trông thấy chúng trong hiệu sách chú Thiện gần nhà, nhưng tôi hãy còn quá nhỏ để vươn tới văn chương của người lớn, tôi hài lòng với nguyệt san Ngàn Thông của Duyên Anh, nguyệt san Thiếu Nhi của Nhật Tiến, nguyệt san Thằng Bờm và mục Mai Bê Bi trên báo Chính Luận. Tháng 4/1975 làm tôi vụt lớn, giống như trông thấy xác chết làm đứa trẻ lớn lên vì hiểu cuộc đời là khổ đau và chết chóc. Tôi có cảm giác cô bé Quy Nhơn hôm qua, đã là thiếu nữ lúc này, ánh mắt tôi nhìn đăm đăm tạp chí Văn và người lính nhìn thấy. Anh nhìn ra ánh mắt tôi trên tập san Văn, như để trả ơn tôi đem quần áo của ba cho anh, anh buồn buồn nói: Mấy quyển tạp chí này anh cho em. Hết rồi, không còn gì nữa, anh không cần nữa. Anh không cần chúng nữa. Em hãy giữ lấy.
Tần ngần một lúc, anh đưa cho tôi. Tôi nhìn được vẻ ngậm ngùi trên gương mặt anh, hãy còn bơ phờ và cháy nắng. Bụi đất, thuốc súng, vết đạn bạn anh trúng thương như hãy còn nguyên trên trán anh. Trán của một người lính mang 5 quyển tạp chí Văn trong ba lô mà tôi không hiểu quan trọng đến mức nào khiến anh không vứt suốt đoạn đường lui binh, khiến anh chấp nhận mang ít đạn dược, lương khô để dành chỗ cho bộ English for today của Lê Bá Kông và 5 tập nguyệt san Văn.
Tôi hỏi: Đi lính mà mang theo sách văn chương chi vậy anh?
Anh nói: Đọc cho đỡ buồn để nhấc mình ra khỏi chiến tranh.
Rồi anh kể, anh mơ ước sẽ đi học tiếp. Anh học năm thứ nhất Văn khoa Sài Gòn trước khi bị động viên. Anh muốn trở về trường cũ, hy vọng phía chiến thắng xem phía thua trận là anh em, cho phép anh sống bình thường, ước mơ bình thường, tốt nghiệp Văn khoa đi dạy một trường trung học tỉnh lỵ nào đó, đạm bạc mà yên ổn với cuộc đời. Anh không thích chiến tranh, anh không muốn đánh nhau hoài, thua trận nhưng cũng là dịp tốt chấm dứt nội chiến. Anh đưa tay vuốt tóc tôi, bàn tay có những đốt chai của người lính mà tôi cảm được khi lướt qua trán mình, lớp da tay sần có thể vì khuân đạn, vì phải đào công sự, chạm vào da làm tôi hơi giật mình. Da của một người đàn ông lạ, tôi nghĩ. Da của một bàn tay ham đọc sách văn chương, tôi cũng nghĩ. Chúng tôi tiễn anh ra cửa, bóng anh vụng về trong bộ đồ dân sự cố đi bình thản nhưng bước chân như chạy trốn người lính là chính anh vừa ban nãy, còn đồ trận, giờ anh đã bỏ lại và muốn thoát bóng cũ.
Ngày ấy, tôi còn rất nhỏ. Tháng 4/1975 tôi chưa là thiếu nữ, tôi chỉ cảm thấy vô cùng thương tâm, lòng như lửa đốt vì lo lắng khi nghĩ đến người thân. Các anh con bác tôi cũng đi lính, những ngày này, các anh tôi lầm than đang trôi dạt nơi nào.
Rồi thời gian qua như bão sa mạc. Gió tốc tan hoang chỉ còn lại đất, tất cả biến mất khi chúng tôi trở về. Trong cơn bão, tủ sách của gia đình tôi bị đốt sạch, ba nói người ta sẽ vào nhà lục soát và kết án tàn dư chế độ cũ, ai giữ sách là phạm pháp. Ba sợ. Mẹ sợ. Cô chú, thím, bác, dì, dượng sợ. Không ai dám giữ, dám giấu hay cất hộ. Tôi và các chị lén ba, giấu những tập sách mà mình yêu thích nhất trong một hòm gỗ dưới chân cầu thang tầng 2, những quyển sách mà người lính đã tặng tôi cũng để lại không nỡ đốt đi. Ánh mắt anh như còn trên bìa sách. Ánh mắt lấp lánh hy vọng anh có thể theo học Văn khoa tiếp tục phảng phất trên trang giấy ố vàng. Thời gian làm những Tạp chí Văn ấy đã trở thành “di sản” của văn chương Miền Nam. Chính tôi cũng không ngờ tới, và có lẽ anh cũng không ngờ đến. Tôi đã giữ, đã đọc, đã “nhấc mình lên” khỏi cuộc chiến như anh dặn. Bằng văn chương.
Cách đây mấy năm, khi đọc trên online Tạp chí Văn ở Hoa Kỳ của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, thấy trên danh mục thiếu những tập năm 1969, tôi nhớ ngày xưa người lính đã cho tôi mấy cuốn nên lôi ra, sách đã ố màu và mối ăn lỗ chỗ. Tôi khẽ khàng lật từng trang sách vì giấy đã mục nát. Tôi cảm giác kỳ lạ là chính anh cũng đang cùng tôi lật khẽ khàng từng trang sách cũ. Lật từng chữ cũ, với sự hoài niệm của một thời đã mất.
Tôi lật từng trang.
Văn số 140, ra ngày 15 tháng 10 năm 1969, gồm 128 trang. Số đặc biệt về Yasunari Kawabata là một nhà văn nổi tiếng của Nhật Bản được giải Nobel văn chương năm 1968. Hình bìa là bức ảnh nhà văn mặc áo kimono đen với gương mặc thiền tông, do Văn Thanh trình bày. Bài nhận định Yasunari Kawabata cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Thư Thanh viết từ Tokyo, tháng 7 năm 1969. Yasunari Kawabata dưới nhãn quang Tây phương của Chu sỹ Hạnh viết từ Melbourne, tháng 3 năm 69. Tiếp theo giới thiệu 5 tiểu thuyết tiêu biểu của Kawabata: Cô đào miền Izu, Tiếng núi rền, Ngàn cánh hạc do Vũ Thư Thanh dịch từ nguyên tác, riêng truyện Thủy Nguyệt do Chu Sỹ Hạnh dịch từ bản tiếng Anh, Nốt ruồi do Mai-Dzam dịch. Văn khi ấy, như thế đã cập nhật văn học thế giới rất nhanh vào miền Nam. Miền Nam, cảnh cửa văn chương mở ra thế giới của toàn Việt Nam. Tháng 4/1975 đã đóng lại phũ phàng.
Bên cạnh đó, Văn số 140 năm 1969 đăng tiếp truyện dài nhiều kỳ Khu rừng hực lửa của Nguyễn Xuân Hoàng. Mục Tin văn… do Thư Trung và các bạn đảm trách: đưa tin Mường Mán cây bút trẻ của Văn vừa ra chiến trường; Lê Bá Lãng thì được biệt phái trở về nghề gõ đầu trẻ; giới thiệu tập sách mới nhất của Nguyễn Mạnh Côn Hòa bình…nghĩ gì?làm gì?, tựa mà về sau Phan Nhật Nam lấy lại trong một chương của bi ký Tù binh và Hòa bình; rồi Hội Bút Việt cử phái đoàn tham dự hội nghị Văn Bút Quốc tế, ở Pháp. Tin ngoài nước: giới thiệu giải thưởng văn hóa ở Đại Hàn, Genève vừa tổ chức cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ XXII giữa các nhà văn hóa, để thảo luận về đề tài “Tự do và trật tự xã hội”.
Tiếp theo mục Thư tòa soạn loan báo trước chủ đề của những số báo sắp tới, cuối cùng Hộp thư bạn đọc Tòa soạn Văn giới thiệu những tác phẩm mới do các tác giả và nhà xuất bản gửi tặng.
Bờ sông lá mục của Phan Lạc Tiếp, là một tập bút ký chiến tranh, trình bày cuộc nội chiến Nam Bắc hiện tại qua cái nhìn của một người đi biển.
Nhật ký quân trường của Trần Châu Hồ, viết trong những ngày ở lại quân trường không đi nghỉ phép của nhà giáo Trần Châu Hồ khi thực tập quân sự tại TTHL Quang Trung.
Vực xoáy của Bàng Bá Lân, tập truyện dị thường gồm 10 đoản thiên, dịch từ nhiều tác giả Âu Mỹ nổi danh.
Những giọt đắng của Võ Hồng gồm 7 đoàn thiên, bìa của Đinh Cường.
Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Remarque, Phạm Trọng Khôi dịch từ bản tiếng Pháp A l’Ouest, rien de nouveau viết về tâm trạng phản chiến của binh sĩ Đức trong Thế chiến Thứ Nhất, đã được chuyển thành phim và dịch sang nhiều thứ tiếng. Bìa do Đinh Cường vẽ.
Văn chương tranh đấu miền Nam của Nguyễn Văn Sâm, khảo sát 24 tác giả quan trọng của văn chương nam bộ thời kỳ 1945-1950, là một công trình nghiêm túc và đáng tán thưởng.
Thơ Lữ Quỳnh, thi phẩm đầu tay gồm khoảng 30 bài. In Thạch bản, trình bày trang nhã, phổ biến hạn chế trong vòng thân hữu.
Viết cho những người còn lại của Lê Trúc Khanh, Hà Huy Khanh và Lệ Thy. Thi phẩm đầu tay của ba tác giả tại Cần Thơ.
Quyển Tạp chí Văn hơn 30 năm trời đã lưu giữ tâm hồn bao con người, như một thước phim quay chậm, từng con chữ, từng con chữ hiện lên những cuộc đời. Số phận những nhà văn Miền Nam này đã ra sao sau biến cố tháng 4/1975, họ còn sống hay đã chết…, với tôi Tạp chí Văn như một nấm mồ bí ẩn.
Nhưng chính những trang sách ẩn chứa bao điều bí ẩn đã giúp tôi thoát khỏi nỗi buồn trong những năm dài cay nghiệt của cuộc đời. Văn chương tự do giúp tôi “nhấc mình” lên khỏi thực tế u buồn của xã hội thực tại. Tôi nhấc tôi lên bằng văn chương đã vắng bóng của miền Nam, nhấc tôi lên khỏi cuộc đời thăng trầm trăm nỗi lo toan. Mà vây quanh là khẩu hiệu. Khẩu hiệu trên tranh cổ động không giúp nhấc mình mà nhấn mình xuống vì phải làm theo chỉ thị, theo khẩu hiệu, mà mình không muốn, vẫn phải làm. Làm tối mặt. Tối mắt. Để về nhà buồn bã là đã không sống thật với mình. Tạp chí Văn khi ấy tôi lưu giữ trong nhà rất lạ, không giống những tập san văn nghệ bày bán trên sạp báo bên ngoài, cũng không giống báo văn nghệ hội nhà văn, là một cái gì khác.
Văn chương tự do cho mình cuộc đời khác, sống cùng nhân vật, đem mình bay đến những miền đất lạ và tuy trong khoảnh khắc, nhưng cuộc đời bỗng hạnh phúc biết bao.
Bây giờ tôi đã hiểu vì sao ngày trước, người lính miền Nam ra chiến trường vẫn mang theo trong hành trang Tạp chí Văn cất trong ba lô của mình, như lời anh nói, giúp anh “nhấc mình ra khỏi chiến tranh”. Ra khỏi sắt thép, lửa và tham vọng. Trong văn miền Nam không có thép, nên anh tìm bình an trong Tạp chí Văn Sài Gòn ngày ấy.
Tôi cũng vậy, tôi cũng muốn tìm bình an trong văn chương.
Ban Mai
Quy Nhơn, 20/01/2011
Trong quyển VĂN tôi sắp giới thiệu sau đây, có một vài bài mà tôi thích, và một phần nào đó, minh chứng được cho điều..đến với văn chương nói chung, và đến với VĂN là tiệm cận mình với một bình an...ít ra là trong tâm tưởng!
NGUYỄN THỊ HOÀNG, 1 tác giả nữ từng gây 1 tiếng vang lớn trong văn đàn văn miền Nam pre 1975 .Chưa một nhà văn Việt nào được các thế hệ thanh niên say mê và tác phẩm đầu tay đem đến tiếng tăm lẫn sóng gió nhiều như Nguyễn Thị Hoàng. Vòng Tay Học Trò, thập niên 60, đã biểu trưng tâm tình nổi loạn của cả một thế hệ trẻ trong một thời đại bắt đầu làm quen với văn chương "hiện sinh", trong tình yêu và trước xã hội, với khao khát một cách sống độc lập.
Còn trong những truyện ngắn mà tôi có dịp đọc trên VĂN, đằng sau mỗi câu chuyện là một trùng dương cô đơn, một dai dẳng ám ảnh mà tôi không thể rời bỏ được, BÓNG MA sau đây là một ví dụ.
Hơn thế, trong truyện ngắn NTH, tôi luôn bắt gặp những suy tư rất riêng, và nhiều lúc, những độc thoại này, như một độc thoại dành riêng cho mình. Đặc biệt, với đoạn này
"...đến một lúc nào đó, ta gặp một người nào, chỉ một lần, dù mến yêu dù thù ghét, cũng chỉ một lần, rồi từ đó cho đến ngày nhắm mắt, vĩnh viễn, dù trái đất còn quay, người ta vẫn có thể còn đi lại, viếng thăm nhau, những đường bay vẫn tiếp tục nối kết mây trời và biên cương nhưng không bao giờ, ta còn gặp lại người đã gặp một lần thứ hai nào nữa, DÙ SỐNG SÓT ĐẾN VẠN TRIỆU ĐỜI TA SỐNG.."
Nhà thơ Kim Tuấn đến với thơ ca từ rất sớm, năm 1959, đã xuất bản tập thơ đầu tay Hoa Mười Phương. Sau đó là các tập Ngàn Thương (1969, in chung với Định Giang), Dấu Bụi Hồng (1971) Thơ Kim Tuấn, (1975), Thời Của Trái Tim Hồng (1990), Tuổi Phượng Hồng (1991) Tạ Tình Phương Nam (1994)...
Thơ của Kim Tuấn rất mặn duyên với nhạc. Một số bài thơ của Kim Tuấn đã trở thành ca khúc của nhiều nhạc sĩ như: Nguyễn Hiền, Y Vân, Vũ Hoàng, Nguyễn Phú Yên...
Nhiều người có thể không nhớ kỹ tên nhà thơ, nhưng những lời thơ của Kim Tuấn, đã trở thành ca từ như: Anh cho em mùa Xuân, nụ hoa vàng mới nở (Nụ Hoa Vàng Ngày Xuân) hay: Từng bước từng bước thầm, hoa vông rừng tuyết trắng, rặng thông già lặng câm... (Kỷ Niệm), hoặc: Khi con đường một mình, hai hàng cây nhớ gió... (Một Mình) thì đã và sẽ còn mãi ngân nga trong lòng công chúng.
Với loạt thơ về những địa điểm nổi tiếng trong chiến trận của cuộc chiến với phía "bên kia sông"...qua thơ, qua nhạc...đã trở thành quên thuộc với người dân trong thời chến...Những nơi chốn mà có lẽ, sẽ không bao giờ ta có thể đến, ta có thể gặp...Nhưng những địa danh ấy, là tượng trưng cho cái xa xăm, cái mơ hồ, cái khốc liệt của cuộc chiến lạ lùng này, Nơi đó, người, và đất, cùng cô đơn, như nhau...
Nói đến KIM TUẤN, có 1 bài thơ, hay nói đúng ra là từ những hình ảnh trong bài thơ này, mà tôi thích ông hơn:
'....Buổi chiều ở Pleiku có gì hỡi em
có nỗi cô đơn trong khói sương mù
có phố buồn hiu, có đêm giấu mặt
có giấc sầu dài trong cõi thiên thu
có bức tường vôi ghi dấu đạn thù
có cuộc đời ta chìm trong khói lửa
kiếp người sao đã lãng du
buổi chiều ở Pleiku, buổi chiều nghe mưa bay trên đầu núi
buổi chiều như mọi buổi chiều
tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng
anh còn tiếng nào để nói yêu em"
http://www.thivien.net/viewauthor.php?ID=2100
TẠ TỴ từng nói về DƯƠNG NGHIỄM MẬU như thế này
Dương Nghiễm Mậu xuất hiện trên văn đàn miền Nam cách đây như một chứng tích. Cái chứng tích đó là nỗi bơ vơ của tuổi trẻ, của một thế hệ tuổi trẻ đang sống giữa cuộc sống không thuộc về mình. Cái tuổi trẻ nào đó được tô hồng trong những dạ hội, dưới mái đại học, hay rong chơi quanh năm với bốn mùa tình tự, đều ở ngoài tầm tay của Dương Nghiễm Mậu. Cuộc sống đối với Mậu là cái gì quá khe khắt, quá cứng rắn và từ đó mỗi suy nghĩ, mỗi hành động hình như, ít nhiều gì cũng để chống đối cuộc đời. Những xấu xa, ti tiện, lòng ganh ghét và đố kị thấp hèn, trộn lẫn với tình thương yêu con người làm giọng văn của Dương Nghiễm Mậu vừa phẫn nộ vừa chua xót.
....
Cái chứng tích- cô đơn và bơ vơ đó, diễn tả đầy đủ trong truyện ngắn sau: CÕI SỐNG LẠNH, mội cõi sống của những người đã chết, hay một cõi chết của người sống?
Cũng chưa lâu lắm, ấy là vào dạo Tháng Tư 2007. Dương Nghiễm Mậu vừa cho in lại 4 cuốn sách (trong đó có Nhan Sắc) bán rất chạy, Với việc xuất bản 4 cuốn sách này, gây ra luồng ý kiến trái chiều, trong đó có 1 bài "đập" mạnh của VŨ HẠNH, 1 nhà văn cũng được khá yêu thích trước 75 (còn sau này thì,...ô hô, ai tai)
http://www.sggp.org.vn/vanhoavannghe/2007/4/96188/
.
TÌM NHAU
Tìm nhau trong hoa nở
Tìm nhau trong cơn gió
Tìm nhau trong đêm khô hay mưa lũ
Tìm nhau khi nắng đổ
Tìm nhau khi trăng tỏ
Tìm nhau như chim mộng tìm người mợ
Tìm trong câu thơ cổ
Tìm qua tranh Tố Nữ
Tìm trên môi đương ca câu thương nhớ
Tìm sâu trong muôn thuở
Tìm nhau như Thiên Cổ tìm Ngàn Thụ
Gặp nhau trong hơi thở của cuộc đời, người ơi
Gặp nhau, hãy nép hơi im trong hương mới
Gặp nhau trong Nhân Tình đầy Bác Ái, ơi người
Gặp nhau trong kinh cầu một hồi chuông.
Tìm nhau trong bom lửa
Tìm nhau trong mưa bão
Tìm nhau trên kinh đô xây trong xương máu
Tìm nhau trong thống khổ
Tìm nghe câu than thở
Tìm nhau như goá phụ tìm mộ biạ
Tìm đâu môi em đỏ
Tìm đâu mây trong mắt
Tìm cho ra mái tóc ngây thơ đó
Tìm xem trong kinh sử
Tìm tương lai sáng tỏ
Tìm nhau khi nhân loại được trùng tụ
Gặp nhau trong vinh dự của đời người, người ơi
Gặp nhau dưới Ðức Tin bao la phơi phới
Gặp nhau trong cơ khổ của thế giới, ơi người
Gặp nhau, đôi tâm hồn được nghỉ ngơị
NHỮNG CUỘC TÌNH TAN VỠ
Rồi sẽ có một thời
Cuộc tình rồi vỡ đôi
Ta lôi kéo nhau đi
Như một lũ tình si
Từ khắp những nẻo đường
Người tìm nhau trăm hướng
Những cánh bướm mầu đen
Như quên lối vườn tiên
Nên hoa cũng dại điên .
Ta tìm người như sông tìm ra biển
Người tìm ta như biển ngược về sông
Gỡ đôi tay là tình thả bay như diều không dây
Người tìm ta bao la nơi biển Bắc
Ta tìm người ở tận cuối biển Đông
Hỡi ôi tìm nhau như thể tìm chim ...
Và chớ có ngỡ ngàng
Tình nào chẳng vỡ tan ?
Ta lê bước lang thang
Như một lũ mèo hoang
Và cũng chớ bẽ bàng
Dạ tràng đi se cát
Gió rét lúc tịch liêu
Hay trong nắng lửa thiêu
Đi vun sới tình yêu ...
Rồi sẽ có một ngày
Cuộc tình phải tan vỡ
Chỉ còn lại thương nhớ
Ở lòng người đi tìm
Đi tìm nhau ...
MỘT VÀI TÁC PHẨM HAY KHÁC TRÊN VĂN số này:
6 nhận xét:
Có cảm giác nhói lòng khi đọc câu này ...H ạ!
Cô Ban Mai này chắc bé hơn chị vài tuổi dựa vào những cảm nhận và những điều cô ấy thấy vào tháng 4.1975 .
May mắn vì giờ phút lâm chung của một giai đoạn lịch sử nước nhà cô ấy còn kịp được trao lại một "cái đẹp" mà ko phải ai cũng có . English for today của LBK chính là cuốn sách chị học suốt thời gian TH _ mỗi cuốn có một màu riêng và trong đó cũng là một thế giới kỳ bí và hấp dẫn mà chương trình Anh ngữ bây giờ ít thấy _ Ngày xưa ngay cả học sinh ngữ vẫn hướng về học cái đẹp của văn chương ...bây giờ thì học để giao tiếp là chủ yếu ...
Chị có lẽ cũng nói với H một lần , văn học miền Nam trước năm 1975 hiền hòa ,ít máu lửa hơn dù đang sống ở giai đoạn chiến tranh khốc liệt, tuổi thơ cũng được dạy yêu thương nhiều hơn là thù hận ...điều đó thể hiện qua nhiều tác phẩm VH của MN ngày ấy. "Vòng tay học trò" là tác phẩm gây tiếng vang ngày ấy nhưng học trò tụi chị thường bị cấm xem hoặc chỉ xem lén lút . Nguyễn Thị Hoàng là cây bút nữ thường viết về hình ảnh người lính ... một trong những cây bút nữ khá nổi tiếng giai đoạn ấy.
Trong đây H có chụp lại một bài thơ của DTL làm nhắc nhớ một bài hát nức tiếng của Phạm Duy mà chị yêu thích từ ngày còn con gái đó là bài "tìm nhau" , chị biết nghe và hát bài này năm 18 tuổi và nhớ đến bây giờ .. thế mới biết có những cái nó làm mình chưa bao giờ có cảm giác chết ngay cả khi không được sống cho ra sống ...Cám ơn em lắm huyvespa...
@chị GIÓ: em cũng rất thích chi tiết "trao lạo 5 quyển VĂN", đẹp & xót xa!
Đến bây giờ, cái gọi là "văn học miền Nam" trước 75 đã bị "vùi dập" bằng những lời dối trá, bằng thái độ hận thù...
Nói như trong KIỀU:
"Làm cho đau đớn ê chề cho coi!/Trước cho bõ ghét những người/ Sau cho để một "trò cười"về sau"
Nhưng trước sau gì, cái gì của CESAR, phải trả lại cho CESAR thôi, em tin thế!
Chị cũng tin thế Huy ạ ! Nó không phải trả lại chỉ vì nó thuộc về một giai đoạn sống có thật mà còn vì nó thuộc về cái đẹp !
bài TÌM NHAU của PHẠM DUY em cũng nghĩ là có liên quan chút chút đến bài thơ này, nhưng vì không thấy câu nào giống hoàn toàn nên còn hơi mơ hồ, chắc ông PHẠM chỉ lấy ý từ ông DU TỬ thoi chi ha!
Chị nghĩ chắc không liên quan đâu H . Vì nếu chị không lầm thì bài hát "Tìm nhau" của PD ra đời năm 1956 ..còn bài thơ của DTL thì hình như sáng tác thập niên 70 ... Có lẽ chỉ có cái title là giống ..:)
Hôm nay chị mới theo link đọc bài viết của ông VH trên TTO...
Một bài viết với cách lý luận ngô nghê , ấu trĩ đến buồn cười ...Huy đọc bài này chưa ?
http://phamxuannguyen.vnweblogs.com/post/1958/14682
Đăng nhận xét