Trước khi nổi tiếng với tác
phẩm đầu tay VÒNG TAY HỌC TRÒ, Nguyễn-thị-Hoàng xuất hiện trên văn đàn với chất
giọng thơ lạ và lẩn khuất đâu đó là một niềm sầu sâu thẳm rất đàn bà như trong
những bài thơ ký dưới tên Hoàng Đông Phương trên VĂN….
Em đợi anh về những chiều
thứ bẩy
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”
“Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay”
Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai
Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay
Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật”
“Cho em xin một chiều vui thứ bẩy
Có nhạc phòng trà có lá me bay
Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ
Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay”
..Người ta chỉ biết nhiều đến
Nguyễn-thị-Hoàng khi bà nổi lên với ồn ào scandal “Vòng Tay Học Trò” và trước
đó cũng là … một chuyện “ồn ào” với “vòng tay” khác nơi phố biển NHA TRANG.
Nhìn gần hơn có thể thấy,
Vòng Tay Học Trò – xuất hiện nhiều kỳ trên 1 tờ báo khá “chính thống” là Bách
Khoa và ký tên là Hoàng Đông Phương bắt đầu từ 1966 –
ngoài là thành công đầu tay khiến Nguyễn-thị-Hoàng
đường hoàng bước vào “chiếu trên” trên văn đàn từ những năm đầu thập niên 60, trong một chừng mực nào đó là 1 cơn déjà-vu..xảy
ra đến 2 lần với bà..
Trong một bài phỏng vấn với
Mai Ninh, bà Nguyễn – thị - Hoàng đã nói rõ & nói kỹ về quyển này như sau
Chán
chương trình, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc
này (thư ký riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về
Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo
sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ
Đà-Lạt. Mùa hè 1964, một xấp pelure5 ố vàng, một cây bút gì đó, viết một
hơi một tháng, VTHT. Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển
cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất
bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những
lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ
trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh
tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình
như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng
trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối
với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết.
Khi
viết, với không phải viết cái gì đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật
của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng
vóc dáng một câu chuyện. Đã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình
thành một tác phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh
vụn của một khúc đời đã vỡ.
Thế
mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi
từ ấy.
Được
lồng bóng trong một giai đoạn thời sự bất an, những ngộ nhận phê phán không thuần
túy qua lăng kính văn học nghệ thuật mà nhiều vấn đề ngoài nó.Cái nhãn hiệu
độc dược hiển nhiên dễ dán là vô luân lý đạo đức, hay một chữ gì đó tương đương
hoặc nặng nề hơn.
Nhưng
nó là như thế nào so với hàng loạt những tác phẩm đã dịch và in ra, những câu
chuyện có thật trong đời thật. Trong VTHT hay bất cứ đâu, nếu cô giáo yêu một học
trò ngoài lớp mình dạy bị kết án thì những mối tình hay hôn nhân giữa thầy giáo
với học trò(chuyện thường thấy), lớp mình hay lớp khác trong trường, thì được
phép, tại sao?
Nên
hình như chủ đề chỉ là cái khiên, những mũi tên nhắm phần sau là một trường hợp,
của một giai đoạn.
Nó
là cái chìa khóa mở cửa vào một thế giới, nhưng hơn mười năm sau, cũng là thứ
chìa khóa đóng kín thế giới ấy lại để có mặt bỗng nhiên vắng mặt.
Nó
là cái khởi đầu muốn chấm dứt tất cả những gì trước và sau nó, nhưng thật phản
tác dụng, nó lại là cái tín hiệu, là mối nối của những tương giao, hiệu ứng hai
mặt của một tính cách định mệnh. Bởi, nó gián đoạn, chôn vùi gần kín thời gian
một đời người hay một đời viết, nhưng bù đắp, cái gián đoạn chôn vùi này lại lắng
đọng và tích lũy một tố chất cuồn cuộn khác trong hồn nhiên tự tính.
Trên
tất cả, nó đem đến những kiếm tìm gặp gỡ và bù đắp cái không là
gì cả mà là tất cả của hôm nay, như giọt lửa sau cùng dưới đám tro vùi, thắp
lại được một phần còn mong manh mà kỳ thực là cái khởi đầu chờ mong của
SỐNG và VIẾT.
Khoảng
71, 72 gì đó, Kiều Chinh và Đặng Trần Thức có tìm gặp NTH định làm phim VTHT. Về
sau lại thôi, hình như vì sợ đọ sức với Mourir d’aimer của Pháp. Sau đó (sách
hay phim) ai làm gì liên quan đến VTHT, NTH hoàn toàn không hay biết, cho đến
nay. NTH vẫn vấp phải những thứ tương tự oan khiên như vậy. Sự thật, những thứ
kia là thuần túy phim ảnh, tiểu thuyết, phía mình thì trích dẫn và phóng tác bằng
chính những mảnh vỡ đời mình. Ví dụ, một thời gian sau cuốn Ngày Qua Bóng
Tối, NTH xem Un Certain Sourire của F. Sagan. Những nhân vật trong NQBT của NTH
lại giống như Luc (với Rossano Brazzi Ý), Bertrand, Dominique và Francoise, chỉ
khác ở F.S thì phá phách, ở NTH thì rã rời (trong truyện này).
Tấm
ảnh nào trên HL? Có người về khi đi mang theo mấy tấm hình NTH trong thời
gian viết VTHT, sau khi ra khỏi vai trò cô giáo thoáng qua. Có
phải trên trận biến hóa liên hồi của những vai trò và tính cách, con người (hoặc
NTH) không thể khoác áo sai lúc và nhầm vai? Chỉ mỗi một điều ngàn muôn năm
không thay đổi, cái là tự tính bất biến, hoặc “luyện tập” (không
phải luyện tập để có ma lực!), để trở thành bất biến hoại, để có ai
còn tìm kiếm kiếp nào sau, còn nhận ra và gặp lại.
NTH
xin lỗi về những lời đáp lại không vừa ý những câu hỏi; trong phạm vi bài này
và từ mọi phía thắc mắc chưa gặp được nhau. Bởi vì NTH đã không thu nhỏ hoặc
phóng lớn mình theo thói thường của một phỏng vấn xưa kia. Chỉ vì những câu hỏi
trên đã “chạm mối thương tâm”, nhức nhối mấy mươi năm trời nên đành phóng tỏa
không đắn đo suy nghĩ gì hậu quả những lời mình. Cám ơn, MN và “ai đó” (biết có
chữ nào qua giới hạn chữ nghĩa?) đã giúp người câm- câm thời khí, không phải bẩm
sinh- bỗng được nói “sau ngần ấy năm trời”. Còn gì nữa không? Còn. Vẫn còn. Vẫn
còn những gì không bao giờ có thể hết.
Sáng tác sung mãn (như phần
nhiều các tác giả trước 1975 – dĩ nhiên trong số các tác phẩm của bà có quyển
hay rất hay và dở rất dở). Nhưng trong những cái “rất dở” đó tôi vẫn luôn bắt gặp
được điều gì đó rất độc đáo, có khi là cách dùng một từ đảo, một câu văn dài
hay chỉ đôi khi là một ý tưởng miên man hoài hoài không chấm dứt…(khác ngược hẳn
với văn chương hiện nay, nhiều quyển chỉ…”kiêu” mỗi cái tựa sách, bên trong…là
một cùng cực của sự rỗng tuyếch và sáo mòn)
Cái sự miên man bất tận như
những lời độc thoại của nhân vật cũng có thể nói là phong cách sáng tác đặc
trưng của bà, đặc biệt trong các truyện ngắn trên Văn…
Bà từng nói về việc VIẾT của
mình như sau
“Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm),
viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng
chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với
mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ
ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa.
Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là
mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra
từ quá trình sống… chín này.”
Tôi không biết lúc bà đang
sáng tác những tác phẩm này trên VĂN - bà
có một niềm ưu tư hay món nợ tình cảm gì đang nợ nần với ai không mà trong mỗi
tác phẩm, để lại dư vị trong tôi đều là một chút buồn…loang ra như nền “trời
xanh trên mái cao”, cuộn trào như sóng, cao xa tầm tay với, buồn thấm đẫm vào
thịt da qua từng con chữ, từng câu văn…Khi chấm hết mội truyện ngắn, Nguyễn-thị-Hoàng
gieo vào độc giả một thứ dung môi “độc hại” nhưng đầy thú-đau-thương “ứa ra từ
quá trình sống chin” ấy của bà…
Những nỗi buồn “oan trái”
đôi khi mang chút ít dằn vặt “hiện sinh” đã từng gây nên ít nhiều “dè bỉu” nơi
những người cho văn chương của Nguyễn-thị-Hoàng chỉ là một thứ văn chương “làm
dáng”… (như Mai Thảo?!?) Tôi không biết nên đồng tình hay phủ nhận ý kiến này…?!?
Chỉ biết rằng sự “làm dáng”
ấy, hay nói đúng hơn là cái ý thức “làm văn” nơi Nguyễn-thị-Hoàng , nếu có, đến
từ sự ham muốn biến tiểu thuyết/ truyện ngắn của mình thành một “phương tiện” để
lý giải đời sống, lý giải sự “vô-lý” của đời sống và cái hoa mỹ, nếu có, chính
là sự khỏa lấp vết thương sâu trong lòng các nhân vật bất hạnh của mình…Vì hơn
ai hết, bà biết, cái kết không viên mãn, cái kết dấy lên như một vết sưng tấy… là
bản án mà mỗi nhân vật phải lãnh chịu, không hơn không kém…
Những chữ, những dòng, những
chấm và cả những-không-chấm trong truyện ngắn Nguyễn-thị-Hoàng…như một chiếc
thuyền lòng đã mắt nạn và nằm kẹt lại vĩnh viễn nơi người đọc, những “triết lý”,
những câu hỏi liên tiếp reo lên trong truyện ngắn của Nguyễn-thị-Hoàng neo lại
trong lòng tôi một chút mơ màng trong đời sống chật chội này, nó cũng đủ làm dấy
sáng trong tôi leo lét những lân tinh hy vọng, dù là ít ỏi… hy vọng lấy từ chút
hơi tàn sức kiệt muốn sống và phải sống… Cái triết lý ấy từng được Nguyễn – thị-
Hoàng nói đến dâu đó trong nhiều tác phẩm
“Trong mỗi mấp máy , bước
chân đi vào hay ra khỏi đời sống hỗn tạp mang mang, trong từng thấp thoáng linh
cảm hay cỏn con mơ tưởng của con người đều vẩn vơ dấu vết của bước chân định mệnh.
Bước chân đó dù ghé dến thềm đời của một người nào, dù dịu dàng hay mãnh liệt,
dù thầm kín hay ngang nghiên cũng đều là một ma lực kì dỵ, vừa dẫn dắt ta theo
con đường vạch sẵn từ tiềm thức nhưng đồng
thời cũng dìu ta lên một cõi sáng láng nào, dù là khoảng cao phải trải qua bao
nhiêu vực thẳm của đời sống và tâm hồn. Sự trốn chạy chỉ là một cách để dấn sâu
thêm vào vực thẳm. Và sự dấn sâu tâm hồn hay đời sống vào vực thẳm cũng là một
cách để cuối cùng bay vút lên cao” (Cho Đến Khi Chiều Xuống – truyện dài)
Cách diễn tả tâm trạng của
người nữ trong những truyện ngắn trên VĂN của bà cũng thật đặc biệt và táo bạo:
thường là một trào dâng thèm khát yêu thương, thèm khát được vỗ về… tình thương
như là một cứu cánh cần kíp cho đời sống trong từng nhân vật của Nguyễn – thị-
Hoàng, họ có thể không ăn, không ngủ…nhưng họ phải yêu, phải tận hiến cho tình
yêu, phải thở “khói thương nhau”…thì lúc đó họ mới tồn tại…cho đến khi sự bất
toại của đời sống xảy đến, những người nữ ấy bàng hoàng nhận ra khuôn mặt đau đớn
của đời sống…Buông tay và trượt ngã…nhưng họ, vẫn tiếp tục phải sống, phải đối
mặt…
Vẽ thêm nhiều khuôn mặt cho
nỗi buồn, Nguyễn-thị-Hoàng còn biến truyện ngắn của bà hấp dẫn độc giả bằng
chính cái cảnh huống bà gán ghép cho những nhân vật như chưa thể bi kịch hơn của
mình – có khi là khung cảnh của một đêm tối, chàng trai vô danh nào đó gặp lại
cô gái nhỏ năm nào, giờ đã “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” trong ĐÊM TÀN
OANH TRẢO; bao nhiêu kỷ niệm – bấy nhiêu đau đớn.. ; có khi lại là một hành trình đi tìm sự cứu
cánh trong tình yêu của một người nữ đã qua thời xuân sắc gặp lại người em gái
nhỏ năm nào…trao yêu thương để rồi bẽ bàng thấy rõ vị trí của mình, chỉ có thể
là bên lề của cuộc sống, khi mà “đi chỉ là dẫm đẹp lên chỗ của những người khác
” trong MÙA XUÂN LÁ VÀNG (cũng có thể nói phải chăng Nguyễn –thị-Hoàng là nhà
văn đầu tiên chạm đến vấn đề nhạy cảm trong văn chương : đồng tính nữ với tinh
tế trong ngòi viết không thể “sensual” hơn) ; lại có khi là một cõi sống mịt
mùng trong đó tình yêu tìm đến trong một bóng dáng vừa xa xôi, vùa gần gũi
nhưng rồi tất cả cũng chỉ là hư ảnh dể rồi cuối cùng con người còn lại trong
chính nỗi bơ vơ cực cùng của mình khi tuyệt vọng ùa đến một cách choáng ngợp và
bất ngờ trong BÓNG SAO CHÌM , BÓNG MA…Và rồi nữa, sự hạnh ngộ thoáng chốc, tưởng
chừng là một nhịp cầu tương phùng giữa hai tâm hồn lạc loài, nhưng rồi, gặp chỉ
để càng xa thêm, vì mỗi người đã tự đẩy mình sang hai bờ của trùng dương cô đơn…
trong GỢI NIỀM THÂN MẬT…
….
Nữ nhà văn “hồng nhan đa
truân” ấy, sau khi khuấy đảo văn đàn trong một thời huy hoàng của văn chương miền
tự do, nay đã chọn cho mình một lối sống im lặng…nói như bà trong trường thiên “nhật
ký” NHẬT KÝ CỦA IM LẶNG… phải chăng “bất động cũng là hành tung của một kẻ ẩn
mình”…Tôi thấy đâu đó cũng có sự “nổi loạn” ngay trong “phát ngôn” có phần yếm
thế kia…
Tôi luôn bắt gặp những suy
tư rất riêng, và nhiều lúc, những độc thoại này, như một độc thoại dành riêng
cho mình trong truyện ngắn Nguyễn-thị-Hoàng
"...đến
một lúc nào đó, ta gặp một người nào, chỉ một lần, dù mến yêu dù thù ghét, cũng
chỉ một lần, rồi từ đó cho đến ngày nhắm mắt, vĩnh viễn, dù trái đất còn quay,
người ta vẫn có thể còn đi lại, viếng thăm nhau, những đường bay vẫn tiếp tục nối
kết mây trời và biên cương nhưng không bao giờ, ta còn gặp lại người đã gặp một
lần thứ hai nào nữa, DÙ SỐNG SÓT ĐẾN VẠN TRIỆU ĐỜI TA SỐNG.."
Tôi không mong đó là những
gì mà Nguyễn-thị-Hoàng muốn dành cho chính bà trong đời sống này...
Chút tình…xin đừng lãng
quên! *
(CHÚT TÌNH XIN LÃNG QUÊN - Tên 1 truyện dài của NTH)
(CHÚT TÌNH XIN LÃNG QUÊN - Tên 1 truyện dài của NTH)
Viết trong Mùa tháng TƯ
huyvespa@gmail.com
NGÀY QUA BÓNG TỐI & 1 vài tập truyện khác của NGUYỄN THỊ HOÀNG:(cần sign-up)
TÁC PHẨM: | ||
Vòng tay học trò (truyện dài, Kim Anh,1966) Tuổi Sàigòn (truyện dài, Kim Anh, 1967) Ngày qua bóng tối (truyện dài, Văn, 1967) Trên thiên đường ký ức (tập truyện, Hoàng Đông Phương, 1967) Vào nơi gió cát (truyện dài, Hoàng Đông Phương,1967) Mảnh trời cuối cùng (truyện ngắn, Hoàng Đông Phương,1968) Cho những mùa xuân phai (tập truyện, Văn Uyển, 1968) Về trong sương mù (truyện dài, Thái Phương, 1968) Cho đến khi chiều xuống (truyện dài, Gió, 1969) Đất hứa (truyện dài, Hoàng Đông Phương, 1969) Tiếng chuông gọi người tình trở về (truyện dài, Sống Mới, 1969) Vực nước mắt (truyện dài, Gió, 1969) Vết sương trên ghế đá hồng (truyện dài, Hoàng Đông Phương,1970) Tiếng hát lên trời (truyện dài, Xuân Hương, 1970) Trời xanh trên mái cao (truyện dài, Tân Văn, 1970) | Bóng người thiên thu (truyện dài, Hoàng Đông Phương,1971) Bóng tối cuối cùng (truyện dài, Giao Điểm, 1971) Tình yêu, địa ngục (truyện dài, Nguyễn Đình Vượng, 1971) Định mệnh còn gõ cửa (truyện dài, Đồng Nai, 1972) Bây giờ và mãi mãi (truyện dài, Đời Mới, 1973) Bóng lá hồn hoa (truyện dài, Văn, 1973) Năm tháng dìu hiu (truyện dài, Đời Mới, 1973) Trời xanh không còn nữa (truyện dài, Đời Mới, 1973) Tuần trăng mật màu xanh (truyện dài, Đồng Nai, 1973) Buồn như đời người (truyện dài, Đời Mới, 1974) Chút tình xin lãng quên (truyện dài, Trương Vĩnh Ký, 1974) Cuộc tình trong ngục thất (truyện dài, Nguyễn Đình Vượng, 1974) Dưới vầng hoa trắng (tập truyện, Sống Mới, 197?) Nhật ký của im lặng (Đồng Nai, 1990) |
Tôi đang tìm những truyện ngắn khác của bà và tìm bản
scan/ chụp quyển VĂN này http://damau.org/archives/9682 , nếu quý vị có vui lòng gửi cho tôi về huyvespa@gmail.com
Thanks,