Thứ Ba, 7 tháng 9, 2010

"...đường phố này một ngày tôi tới"

"Trả lại em yêu, khung trời Đại Học
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát
Vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt…<"


Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội....
luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng
hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại
được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói
chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh
tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn
gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.
 
Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc
Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Tân
Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn
mang tên Pháp. 
 
Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là
Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet  thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư
Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan
Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : "nhờ vậy" mà sau khi tạnh mưa, dọc theo
bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya
mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách. 
 
Sau khi "chạy giặc" hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho
quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện Sỹ" đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở
về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet. 
 
Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông
ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên
Frère nhưng nếu Frère Louis là  để tưởng nhớ  đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd,  đường Frères
Guillerault (có chữ "S" sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài
Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
 
Trong lúc "tản cư" tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi
học tiếp miển phí lớp "douzième" trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi."Trường Chasseloup"
xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon,
nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là
luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc
Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội pháp mới trở lại Việt Nam
nên ít có gia đình và trẻ con pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-
1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho
đến  ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi
xe đạp từ "Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh
thủ thời giang để cạo mủ cao su !
 
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên
đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và
chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và  Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một
đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì
chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và
ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.
 
Như vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ chánh cống" và "dân Sài Gòn một trăm phần trăm", lớp tuổi gần
70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và nhũng bạn gốc "Bắc trước năm mươi tư"
mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng !  Không phải tôi bị "tây hóa" 
aejjrsite.free.fr   Magazine Good Morning   6 septembre 2009   ©Droits Réservés  Trần Ngọc Quang
2
nên không chịu dùng tên việt nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc
trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai
nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…
 
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi  ngày chạy
ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo
trái qua  đường Chemin des Dames và băng qua  đường Lacote (chớ không phải  Lacotte, Moïse Lacote là cựu
Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral
Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng
ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ,
Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông
đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận,
dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).
 
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ Rô" để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn
Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ "préau (sân lót
gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông "Moreau", tên của người quản thủ pháp đầu tiên chăm nom
vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là "vườn Ông Thượng", có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn
Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời pháp thuộc vườn "Bờ Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng
vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố
vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la
Pépinière, để  biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi
Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng" là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời
tôi chỉ gọi vườn đó là "vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.
 
Ra vườn Bờ Rô gặp  đường Chasseloup-Laubat rồi  đi thẳng trên  đường Larégnère, sau  đó tới  đường
Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne
Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère ) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa,
ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng cua Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đốc Victor Charner năm
1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C
(Régiment d'Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.
 
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường
Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa.
Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy
Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường,
nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa
nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở  thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là
Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống pháp nên bị lính pháp phá dẹp
hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang
nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con
gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người pháp làm dưỡng đường sản-
phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông việt nam đầu tiên tốt nghiệp
bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu  (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm
1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà việt nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác
sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm
1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm
1945 chánh phủ pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng
đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho
Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm
1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa
Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh. 
 
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me,
song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud
des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lơp nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái.
Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes
người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp
trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ
thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn).
Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế 
hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn
chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy
cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy). 
aejjrsite.free.fr   Magazine Good Morning   6 septembre 2009   ©Droits Réservés  Trần Ngọc Quang
3
 
 Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một "đứa con" của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận
tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn),
tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua
đường Frère Louis để về nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm", đúng hơn là
của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối
năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như
thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những  trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.
 
Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy
đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ
Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công
Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao
bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh
bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra
đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay
xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
 
Rồi cứ đi theo mãi đường d'Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền
chỉ huy cua các Đề Đốc Pháp đóng tại đó, để về Ngã Sáu (Phù   Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral
Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la
Somme, Chemin des Dames,  đường Verdun,  đường Arras,  đường Champagne,  đường Dixmude,  đường
Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân
pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner
người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm
Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế
Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
 
Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là "Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông Sài Gòn đến
Tòa Thị Xã, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên
là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người pháp    lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi "đường Kinh Lấp" thành
lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những
năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les
Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên
kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo
lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ
Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó
là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn,
nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm
năm 1963. Trước Tòa Thị Xã, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên
là Place Francis Garnier để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà
Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là
đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã
bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau
nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
 
Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người
Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như
nhiều người tưởng, thuyền "Le Catinat" lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời
Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều "Ông Tây" ngồi uống cà phê tại
khách sạn Continental, lúc  đó chưa có tiệm Givral và nơi  đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie
Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi
cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dười tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì
trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn
vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo
lúc đi trước "Nhà Hát Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris.  Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài
Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường "Keo Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà; qua công trường Pigneau de Béhaine
trước Bưu Điện có bức tượng Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại
Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã
Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si  tử vong trong Đệ Nhứt Thế
Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ
Con Rùa". 
 
aejjrsite.free.fr   Magazine Good Morning   6 septembre 2009   ©Droits Réservés  Trần Ngọc Quang
4
Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường
gọi là "xe lửa giữa" vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở
gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với
ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi
nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống
Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai
chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao
kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng
phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại
Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ "e" chớ không phải với chữ "é" vì là người gốc Ý Đại Lợi.
 
Xe  điện chạy thẳng vô  đường rue des Marins, qua khu  Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và  đường
Jaccario (vì lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu gần đó trên "Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và
chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, nay vẫn là nhà
hàng và khách sạn Arc-En Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà
ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.
 
Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà
thờ bắng "dằng thung" trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước
nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ
Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh
Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học "trường tây" nên tôi thắc mắc và tự hỏi  Bà nào mà mang họ
Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn
Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu
tiên làm Chủ Bút báo "Nữ Giới Chung" cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa
soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ
đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?
 
Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay vẫn là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì "Mì
La Cai", đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế
Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì
dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông
Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho
xích lô và xe  đạp. Nếu  đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa  đường nầy  đến  đường Frédéric
Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả
một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Dejean De La Bâtie, tên
của một bác sĩ tận tụy lo cho người việt nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau
1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn
Hoả.
 
Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai,
trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá
lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài
thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.
 
Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup-Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua
đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua
khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites) và đến tận trường Marie Curie
mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai
Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của
Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi
1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn
cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người việt và chánh quyền
bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt
Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như
không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới
nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài "Sử Gia" buộc tội vị nầy nhiều
điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ
có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện
nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo
đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng "Tả Quân Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng vì những vị anh
hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.
 
aejjrsite.free.fr   Magazine Good Morning   6 septembre 2009   ©Droits Réservés  Trần Ngọc Quang
5
Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài việt nam như đường
Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ
Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn
Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị
Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh
Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và
là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm
thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao
phổi.
 
Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê
Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó
đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ
Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson de Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr
vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng
Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt
được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.
 
Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng
ba năm 1983 đã sang bằng "Lăng Cha Cả", có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người
ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam  nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine,
được dân việt nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evêque d'Adran, người  đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi,  đi với 
Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều  đình vua Louis XVI  để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là
Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh
Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho
Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất
năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tìch xưa nhứt của Sài Gòn "ở Gia
Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được
đem về Páp năm 1983 chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi
có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ
năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine" và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt
Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cưong …
 
Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga
Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cạp có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi
không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.
                                                                           
  
       
 
Những tên đường Sài Gòn trong bài theo thời cuộc   
Thời Pháp thuộc  /Sau 1954  /Sau 1975
Albert Premier  Đinh Tiên Hoàng  Đinh Tiên Hoàng
Amiral Roze  Trương Công Định Trương Định
Armand Rousseau, Jean-Jacques Rousseau Trần Hoàng Quân Nguyễn Chí Thanh
Arras Cống Qùynh  Cống Qùynh
Aviateur Garros, Rolland Garros  Thủ Khoa Huân  Thủ Khoa Huân
Barbé Lê Qúy Đôn Lê Qúy Đôn
Blancsubé, rue Catinat prolongée  Duy Tân  Phạm Ngọc Thạch
Bonard Lê Lợi Lê Lợi
Carabelli Nguyễn Thiệp Nguyễn Thiệp
Catinat Tư Do  Đồng Khởi
Champagne Yên Đỗ  Lý Chính Thắng
Charner Nguyễn Huệ Nguyễn Huệ
Chasseloup Laubat  Hồng Thập Tự Nguyễn Thi Minh Khai
Chemin des Dames  Nguyễn Phi  Lê Anh Xuân
Colonel Boudonnet  Lê Lai  Lê Lai
Dixmude  Đề Thám  Đề Thám
Đỗ Hữu Vị, Hamelin  Huỳnh Thúc Kháng Huỳnh Thúc Kháng
Douaumont  Cô Giang  Cô Giang
Ducos Triệu Đà Ngô Quyền
Duranton Bùi Thị Xuân  Bùi Thị Xuân
Espagne  Lê Thánh Tôn  Lê Thánh Tôn
Eyriaud Des Vergnes  Trương Minh Giảng Trần Quốc Thảo
Frédéric Drouhet  Hùng Vương Hùng Vương
Frère Louis  Võ Tánh  Nguyễn Trãi
Frères Guillerault  Bùi Chu  Tôn Thất Tùng
Gallieni, rue des Marins
Trần Hưng Đạo, Đồng
Khánh Trần Hưng Đạo
Garcerie Duy Tân  Phạm Ngọc Thạch
Général Lizé  Phan Thanh Giản  Điện Biên Phủ
Georges Guynemer  Võ Di Nguy  Hồ Tùng Mậu
Huỳnh Quan Tiên  Hồ Hảo Hớn Hồ Hảo Hớn
Jaccario Tản Đà Tản Đà 
Jauréguiberry Ngô Thời Nhiệm Ngô Thời Nhiệm
La Grandière  Gia Long  Lý Tự Trọng
Lacaze Nguyễn Tri Phương Nguyễn Tri Phương
Lacote Phạm Hồng Thái  Phạm Hồng Thái
Larégnère  Đoàn Thị Điểm Trương Định
Legrand De La Liraye  Phan Thanh Giản  Điện Biên Phủ
Léon Combes  Sương Nguyệt Ánh Sương Nguyệt Anh
Mac Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle Công Lý  Nam Kỳ khởi nghĩa
Marins  Đồng Khánh  Trần Hưng Đạo
Miss Cavell  Huyền Trân Công Chúa Huyền Trân Công Chúa
Nancy Cộng Hòa  Nguyễn Văn Cừ
Nguyễn Tấn Nghiệm, rue de Cầu Kho  Phát Diệm Trần Đình Xu
Nguyễn Văn Đưởm Nguyễn Văn Đưởm Nguyễn Văn Nghĩa
Ohier Tôn Thất Thiệp Tôn Thất Thiệp
Paul Blanchy  Hai Bà Trưng  Hai Bà Trưng
Pavie, Hui Bôn Hoả  Lý Thái Tổ  Lý Thái Tổ
Pellerin Pasteur  Pasteur
Phan Thanh Giản  Ngô Tùng Châu  Lê Thị Riêng
Pierre Flandin  Bà Huyện Thanh Quan Bà Huyện Thanh Quan
Pierre Pasquier  Minh Mạng  Ngô Gia Tự
Place Eugène Cuniac  C.Trường Quách Thị Trang
C.Trường Quách Thị
Trang
Place Maréchal Joffre  Công Trường Quốc Tế Hồ con Rùa
Richaud Phan Đình Phùng Nguyễn Đình Chiểu
Somme  Hàm Nghi  Hàm Nghi
Testard Trần Qúy Cáp  Võ Văn Tần
Thévenet Tú Xương Tú Xương
Tổng Đốc Phương Tổng Đốc Phương Châu Văn Liêm
Trương Minh Ký, Lacant  Trương Minh Ký  Nguyễn Thị Diệu
Verdun,Thái Lập Thành, Gal Chanson,Nguyễn Văn
Thinh  Lê Văn Duyệt Cách mạng tháng 8
Ypres Nguyễn Văn Tráng Nguyễn Văn Tráng

Bản đồ SG 1961

http://www.lib.utexas.edu/maps/world_cities/txu-pclmaps-saigon_sheet1-1961.jpghttp://www.lib.utexas.edu/maps/world_cities/txu-pclmaps-saigon_sheet2-1961.jpg

http://www.lib.utexas.edu/maps/world_cities/txu-pclmaps-saigon_sheet1-1961.jpg

http://www.lib.utexas.edu/maps/world_cities/txu-pclmaps-saigon_sheet2-1961.jpg






























http://www.caimon.org/Hinhanh/ban_do_saigon_truoc_75.JPG

Không có nhận xét nào: