Chiếc trực thăng bay là mặt nước
Như cơn mộng nhanh.
Phá Tam Giang, phá Tam Giang,
Bờ bãi hỗn mang, dòng bát giát,
Cát hôn mê, nước miệt mài trôi.
Ngó xuống cảm thương người lỡ bước,
Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi.
Phá Tam Giang, phá Tam Giang.
Nhớ câu ca dao sầu vạn cổ.
Chiều dòn tan, nắng động nứt ran ran.
Trời thơm nước, thơm cây, thơm xác rạ,
Thơm cả thiết tha đời.
Rào rào trận gió nhám mặt mũi.
Rào rào trận buồn ngây chân tay.
Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ
Từng đoàn như trẻ ghê ma.
Ta ngó thấy thùy dương gẫy rũ
Từng cây như nỗi bất an già.
Ta ngó thấy rào chà cản nước
Từng hàng như nỗ lực lao đao.
Ta ngó thấy nhà cửa trốc nóc
Từng ngôi như miệng đất đang gào.
Vì sao ngươi tới đây?
Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói,
Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam.
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn,
Dưới mắt ngươi làm tên lính ngụy.
Ví dầu ngươi bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bặt im,
Chuyện cũng thành vô ích.
Ví dầu ngươi gục
Vì bom đạn bất dung,
Thi thể chẳng ai thâu,
Nào có chi đáng kể.
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng,
Ví dầu các việc người làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại,
Mặt đất nầy đổi khác được bao nhiêu ?
Ngươi há chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, phá Tam giang ngày rày đâu đã cạn?
Ta phá lên cười, ta phá lên cười
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cõi âm nào ngươi vốn không tin,
Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...?
Các việc ngươi làm,
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm.
Các việc ta làm,
Ta xét thấy chẳng ra chi.
Nên người hăng điên, còn ta ảm đạm
Khi cùng làm những việc như nhau.
Ta tự hỏi vì sao,
(Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi?)
Và ta tự trả lời.
(Có bao giờ ngươi tự trả lời?)
Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
Phải quạt, phải quạt
Chỉ vì nó phải quạt.
Ta thương ta yếu hèn.
Ta thương ngươi khờ khạo.
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng,
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử,
Cùng mê sa một con dĩ thập thành.
Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận.
Chiều trên phá Tam Giang im lìm âm cảm thông.
2.
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.
Giờ này thương xá sắp đóng cửa.
Người lao công quét dọn hành lang.
Những tủ kính tối om.
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm.
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm.
Sài Gòn không còn buổi tối nữa.)
Giờ này có thể trời đang nắng.
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tỉnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi.
Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối,
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn,
Quyển sách mở sâu đêm.
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỉ.
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới.
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ.
Giờ này có thể trời đang mưa.
Em đi nép hàng hiên sướt mướt,
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đóa hoa nở gấp rút.
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp,
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ.
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh,
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nỗi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ.
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới.
Giờ này thành phố chợt bùng lên.
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận.
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi,
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya.
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi,
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng,
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại.
Anh yêu, yêu nuối tuổi hai mươi,
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ.
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân.
Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại!
3.
Chiều trên phá Tam Giang,
Mày nhìn con nước xiết
Chảy băng bờ bãi ngổn ngang câm.
Nghĩ tới, nghĩ tới những công trình mày có thể hoàn thành
Mà rồi mày bỏ dở.
Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường
Trên mịt mùng nghi hoặc.
Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào
Còn lưu hậu chua cay hoài vọng.
Nghĩ tới khu vườn ẩn cư cỏ cây khuất lấp,
Căn nhà ma ám chầy ngày gió thổi miên man
Đụt tuổi già bình an vô tích sự
Như lau lách bờm sờm trên mặt sông nhăn
Cùng cái chết.
Cái chết lâu như nỗi héo hon dần
Làm chính mình bực bội.
Gió muôn ngàn năm thổi lẽ tuần hoàn
Cho cỏ cây thay đời đổi kiếp.
Và mày kinh sợ nghe nhắc điều vượt sức bình sinh
Bởi mày không đủ dạn dày trình diễn tới lui cơn thất chí
Như gã hề cuồng mưu sinh giữa chốn đông người
Với từng ấy tấn tuồng bần tiện
Rút ra từ lịch sử u mê.
Giói thổi thêm đi, gió thổi thêm đi
Cho cỏ cây mau chết, mau hồi sinh.
Mày mặc kệ.
Chiều trên phá Tam Giang
Có gã hề cuỗng buông tiếng cười lạnh rợn
Khiến bầy ác thú mà lịch sử sanh cầm cũng chợt hãi hùng
Dớn dác ngó.
6-1972
Cho đến buổi chiều, khi chiếc trực thăng đổ quân xuống bên kia bờ Phá Tam Giang, chúng tôi mới chợt khám phá những lời thơ trong nhạc phẩm quen thuộc “CHIỀU TRÊN PHÁ TAM GIANG” của Tô Thùy Yên do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ thành ca khúc, có nhiều câu hay và hợp tình với cảnh ngộ chúng tôi lúc bấy giờ... Giữa những tràng đại pháo bắn vào mục tiêu và đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang chuẩn bị tiến vào Cổ Thành Quảng Trị. Người lính vẫn điềm nhiên kiêu hùng lãng mạn:
... Chiều trên phá Tam Giang
Anh chợt nhớ em, nhớ bất tận...
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới hai hàng cây thẳng im ngủ...
Ở thành thị không khí chiến tranh chưa bị ô nhiễm, những người con gái có người yêu ngoài trận mạc chỉ thoảng chút lo âu, khắc khoải, đợi chờ. Người lính vẫn nhớ tới em, nhớ tới cuộc tình hẹn hò đầy thơ mộng:
Giờ này có thể trời đang mưa
Em đi sát hàng hiên sướt mướt
Nhìn bong bóng nước chạy trên đường
Như những đóa hoa vụt chóng nở
Rồi có thể em vào quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa đám ghế bàn quen thuộc
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh...
...Nghĩ tới những điều mà em sợ phải nghĩ tới
Và nghĩ tới anh,
... nghĩ tới anh.
Chúng ta không thể nào không biết đến những hàng lớp thanh niên ra ngoài trận chiến, mỗi giây phút phải đối đầu với những chuyện hiểm nguy. Sự sống và nỗi chết không còn biên giới. Có thể tiếng cười thoạt mới rộn rã bỗng tắt lịm bởi một tràng đạn bắn lén của quân thù. Tâm trạng của người chiến sĩ ray rứt mông lung. Lớn lên, bỗng dưng phải chấp nhận cuộc chiến thật phi lý. Nhiều khi đứng trên đỉnh đồi giữa khu rừng núi Khe Sanh - Ái Tử, dưới chân là ngổn ngang xác ta và địch sau một trận chiến ác liệt, màu da vàng, khuôn mặt trẻ thơ, nằm chết như ngủ say trên cỏ tranh, hiền hòa không chút thù hận, lòng ta bỗng gợn lên những xót xa. Người từ phương Bắc xa xôi băng rừng lội suối tới. Bạn ta từ phương Nam trực thăng vận ào ào lên đây, để rồi cùng bỏ thây trên đỉnh núi này. Những con chốt thân phận nhược tiểu qua sông trên bàn cờ chính trị quốc tế thật đau lòng. Và cả hai đều cứ tưởng mình chết để vinh danh Tổ Quốc Dân Tộc.
Trước mặt, những người lính còn lại vẫn an nhiên uống rượu với tử thần:
...Ta chắt cho nhau giọt rượu sót
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay bắt
Ước cõi âm còn gặp để say...
(Anh Hùng Tận)
... Cồn xa cây vướng sáng mơ màng
Áo quan phong quốc kỳ oanh liệt
Niềm thiên thu đầm cổ xa tang
Quê ta không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh
Thêm một chút gì như hối hả
Người thân chưa khóc ráo thân tình...
(Qua Sông)
Cuộc chiến mỗi ngày bùng vỡ giữa hai ý thức hệ Cộng Sản và Tự Do. Hay nói khác hơn là cuộc chiến quyết liệt giữa hai ý niệm ác và thiện. Cái ác đầu độc tư tưởng sắt máu, hận thù, hiểm độc, ngụy taọ tuyên truyền giải phóng... Với mục đích xâm lấn lãnh thổ và triệt hủy văn hóa tự do, nhân bản! Cái thiện với bản chất nhân đạo, chống giữ bằng thái độ bao dung khoan hòa và tình người. Người lính Quốc Gia vừa cầm súng chiến đấu vừa yêu nhạc Trịnh Công Sơn và thích thơ Xuân Diệu, Huy Cận... một cách thoải mái. Người lính phương Nam chiến đấu trong tư thế tự vệ. Đối diện với quân thù, nếu không chiến đấu sinh tồn sẽ tự sát. Đơn giản thế thôi “...Họ vào sinh ra tử lúc nào cũng khơi khơi, coi cái chết như không, coi chuyện đời như phù vân, coi kẻ thù như một lũ khờ dại đáng thương, coi “Chính nghĩa” như chuyện nhảm nhí, chỉ có hạng mê muội mới hăng say...” (VHMN-Tổng Quan-Võ Phiến).
Buổi chiều uống nước giòng Ma-hý
Thằng Xuân bắn chết thằng Mang-Khinh
Hỡi ôi! Sống chết là mưa nắng
Gió tối mưa đêm chớ lạnh mình...
(Thảo Khấu - Nguyễn Bắc Sơn)
Bậc thánh triết là những tay biếng nhác
Sống khề khà quanh bữa tiệc nhân sinh
Kết bạn bè cùng cây cỏ vô minh
Rất chán ghét những trò chơi thế sự...
(Đại Lãn - Nguyễn Bắc Sơn)
(Văn Học Miền Nam - Tổng Quan - Võ Phiến).
Ở thủ đô đầy ánh sáng, người ta say mê với những điệu luân vũ hơn theo dõi những tin tức nóng bỏng từ chiến trường xa. Những chán nản rã rượi trước những nguồn tin phóng đi từ vô tuyến truyền thanh, từ báo chí trong và ngoài nước. Lời tuyên dương Stanley Karnow khi nhận giải Pulitzer với lý do: Anh ta đã có công sưu tầm những tổ chức một cách xác thực đến đường giây buôn lậu quốc tế khủng khiếp đang xảy ra giữa ban ngày tại miền Nam và đã dùng ngòi bút miệt thị tận tình để bôi đen hình ảnh hào hùng của Quân Đội VNCH. Những lớp trí thức khác gục đầu lên những trang sách hiện sinh, nôn mửa của Camus, Sartre... như một kiểu cách thời thượng. Đêm vẫn dày đặc, tỏa mù khói thuốc bên những chai Hennessy đắt tiền. Bên những cô gái sặc sụa giọng cười như mảnh thủy tinh vỡ vụn, nhầy nhụa với âm thanh những lời ca lê thê não nề, khuấy động tâm tư con người bi lụy trứơc cảnh tang tóc đau thương của chinh chiến. Ai chết mặc ai. Người lính, chiến đấu trong cô đơn. Tuy nhiên những đoàn quân bảo vệ đất nước vẫn ngày đêm tiếp tục chiến đấu, hy sinh trong thầm lặng. Xót xa từng trang sử máu đau thương. Cuộc chiến thiếu công bằng trong mắt nhìn của thế giới. Trò chơi biển lận của những tên lái buôn chính trị đầy xảo quyệt. Chiến tranh bị xuyên tạc dối trá từ những hệ thống tuyên truyền tồi tệ đó, lan rộng khắp thế giới, tạo nên trạng thái tâm lý vô vọng, hầu như mọi người lính có lương tri và liêm sỉ đều biết. Dĩ nhiên người lính, người thi sĩ, biểu hiện trí thức miền Nam Tô Thùy Yên cũng cảm thấy nỗi ưu tư dây chuyền sâu sắc của người lính nơi trận mạc. Và Tô Thùy Yên đã cảm thông định mệnh oan nghiệt mà thế hệ cùng thời với ông đã nhận phận khổ đau:
...Bảo xác chết làm phân bón hòa bình
Chúng nó giết người trong nhà ngoài ngõ
Chúng nó giết người như dọn rừng hoang
Một tiếng thôi tư bản hay vô sản
Không ai đứng ngoài cuộc báo thù này
Nát thân tôi đường mã tấu hai phe
Tôi ngã quỵ đôi bàn tay sạch sẽ...
(Ngoại Cuộc)
...Và tôi xử tử tôi
Giữa ngõ tắt đưa về định mệnh...
(Tội Trạng)
...Tôi thổ huyết cuồng mê như núi lửa
Thiêu hủy hình hài ăm ắp chất cô đơn
Rồi trời đất hừng đông như trứng vỡ
Tôi đã đầu thai thức dậy đỏ sơ sinh
(Kiếp Khác)
Thi sĩ Tô Thùy Yên đã thể hiện ý thức chán chường
qua những chặng sống thê thiết buồn bã xót xa. Thực sự anh đã hoàn toàn đánh mất niềm tin, lịch sử đang bị bỏ quên trong huyệt mộ:
...Tôi chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng
Giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô...
Anh sống làm quen cùng cái chết
Liếm lấy mặn mà trên đau thương
Chìm mãi xuống em và mất tích
Như mặt trời rã trong nước loang...
(Hải Phận)
Sự phẫn nộ và nguyền rủa ý đồ của những kẻ đầy tham vọng gây chiến tranh của thi sĩ, như viên sỏi rơi chìm trên mặt hồ trầm lắng của thế nhân. Anh hét lớn trong thinh không như một niềm bi phẫn với trời đất “...Hú dài một tiếng lạnh về hư không!” (Không Lộ)
...Ta hỏi han hề Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ...
(Trường Sa Hành)
Tôi hiểu được niềm ưu tư ray rứt của thi sĩ, vì ông đã đến với người lính tận cùng nơi chốn trận mạc, đã cười đùa với cái chết cận kề, và cũng đã hồn nhiên tham dự vào cuộc chơi đầy phi lý:
...Cuộc cờ kỳ lạ không bày tướng
Ăn sạch quân, trừ tính được thua
Hỡi ai tráng sĩ mài dao nhọn
Xin nhớ đời không mỗi sắc vua
(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Chưa có nhà thơ quân đội nào đề cập đến hình ảnh người lính trong thơ tuyệt vời đến như thế, ngoại trừ Quang Dũng, Nguyễn Bắc Sơn, Luân Hoán, Cao Thoại Châu, Hà Huyền Chi, Lâm Hảo Dũng, Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư...
...Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm...
...Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành...
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Như chuyện đã an bài, chiếc lá đã thả trôi theo giòng nước... Tô Thùy Yên cũng đành chấp nhận buông trôi theo với số phận an bài. Những dấu tích người lính ông đã chân thật ghi lại trong thơ. Những hình ảnh sinh động nhưng đượm buồn man mác:
Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa
Con đường đáo nhậm xa như nhớ...
...Tới đây toàn những tay hào sĩ
Sống chết không làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc về thân thế
Có vợ con mà như độc thân...
Nỗi niềm chua chát thể hiện qua câu hỏi, qua nụ cười vì cuộc chiến đang đến hồi thúc bách hiểm nguy:
Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp. Ta cười bung:
Còn mươi tháng nữa lên trung úy
Có thể ngày mai chửa biết chừng
(Anh Hùng Tận)
Tâm trạng hoang mang của người lính chiến gần như là nỗi hoang mang chung trong hầu hết hàng lớp thanh niên của thời điểm chiến tranh trước 1975. Một giấc mơ bình thường chỉ mong cho cuộc chiến phi lý này sớm kết thúc trong hòa bình thực sự, trở về sống an phận với cái thế giới riêng tây giữa cõi trời đất quê hương thanh bình:
...Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian, hòn đá cuội
Lăn dài kinh động cả hư vô
...Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời ta...
...Ta ngồi cho đến khi trời trắng
Đồng ruộng xanh đông đúc tiếng người
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi...
(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Giấc mộng con đơn giản đó, đã tắt lịm khi cơn bão lửa thổi về miền Nam. Những cánh rừng đã ngộp thở và bầy chim đã xao xác bay lên. Thi sĩ Tô Thùy Yên và những người lính trong đoàn quân bách chiến ở An Lộc, Cổ Thành Quảng Trị, Khe Sanh, Chu Phong, biên giới Việt Miên... đã bị bức tử một cách dã man và đẩy vào các trại cải tạo khắp rừng núi Cao Nguyên và Việt Bắc. Không còn lý do nào hơn nhận chịu sự đau đớn tận cùng về thể xác hơn mười ba năm sau ba lần bị chính quyền Hà Nội bắt giam... “Lần đầu Tô Thùy Yên bị bắt đi học tập cùng với Sĩ Quan QLVN và bị đưa đi các trại cải tạo tại miền Nam và miền Bắc trong hơn 10 năm. Tới năm 1988, Tô Thùy Yên lại bị bắt về tội vượt biên và bị giam gần bốn tháng. Sau cùng vào tháng 11 năm 1990, Tô Thùy Yên bị bắt lần thứ ba bị kết những tội danh nặng nề hơn như... “tuyên truyền chống Xã Hội Chủ Nghĩa” và “Âm mưu lật đổ chính quyền”. Tuy không bị đưa ra tòa và kết án, nhưng ông bị đối xử tàn tệ, bị biệt giam nhiều tháng trong xà lim cho tới năm 1992 mới được thả về...” (Tài liệu của Nguyễn Đức - Minnesota).
Với sự chịu đựng ròng rã, cuối cùng ông đã bước ra khỏi những núi rừng khắc nghiệt kinh hoàng đó:
...Hề, ta trở lại gian nhà nhỏ
Giữa cánh đồng không bên kia sông
Trống trải hồn ta cơn gió rã
Tiếng tàn, tàn rụng suốt mênh mông
...Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc
Xa rồi đám lửa cuối thiên thu
Cửa thần phù dựng trường sơn sóng
Mỗi ngọn xô chìm một giấc mơ
(Em Nhỏ, Làm Chi Chim Biển Bắc)
Hơn mười năm ông lăn lộn trong bao nhiêu nghịch cảnh của kiếp sống, những đảo điên liên tục của trùng trùng oan nghiệt, nhưng may thay ông đã giữ tâm thường trụ an bình. Cái Tâm Bát Nhã mênh mông lượng đất trời. Chính ông khai mở chốn tuyệt cùng của Tâm Thức, cánh cửa Đại Từ đã tỏa sáng hào quang. Hận thù như sương khói tan biến trước đôi mắt nhân ái bao dung tuyệt vời của thi sĩ. Thi sĩ hiện hữu với vai trò sứ giả tối thượng của Sự Sống đầy nhân bản của Tự Do, Hòa Bình. Người thi sĩ dịu dàng mang đến mùa xuân, ngôn ngữ bằng âm điệu chim muông và nhạc suối an lạc ngàn đời. Là lúc tâm trí ông tĩnh lặng cho dù bão đời vừa nghiệt ngã thổi qua:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng…
…Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?...
…Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm…
(Ta Về)
Chắc ông không bao giờ quên, đã có một lần Tô Thùy Yên “toan bỏ ra đi vĩnh viễn trước kỳ hạn...” (Theo tin Thi Vũ) vào khoảng thời gian 1989 nhưng may cứu thoát kịp thời khi ông quyết định cắt cườm tay tự tử. Như một đối kháng của thi sĩ. Lần này ông và gia đình thực sự rời khỏi quê hương Việt Nam yêu dấu, tuy ông không chọn cách tự hủy, nhưng ông cũng cảm thấy xa rời nơi chốn sinh thành chẳng khác chi một loài cây bị bứng hết gốc rễ, như một lưu đày biệt xứ, nỗi đau cũng thấm thía khôn cùng. Nhiều nhà văn nhà thơ đã viết về Tô Thùy Yên trước 75, cũng như sau 75 ở hải ngoại. Trong phần “Thơ Miền Nam” tập một, nhà văn Võ Phiến đã nhận định về Tô Thùy Yên “Gần như toàn bộ sự nghiệp thi ca của Tô Thùy Yên là một dấu hỏi khổng lồ nêu lên trước cái bí ẩn muôn đời của vũ trụ...”.
Với Thi Vũ trong Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam đã nói về Tô Thùy Yên “...Và biết đâu kẻ cứu tinh nòi giống không là một thi sĩ? Không là dòng thơ Tô Thùy Yên? Một Nguyễn Du khác:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời...
Khung đời nhị nguyên tan vỡ qua thế phận Kiều của “trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” vừa khép lại. Cùng với Tô Thùy Yên hiển hiện mối dung thông bất nhị lúc “NGHE NẶNG TỪ TÂM LƯỢNG ĐẤT TRỜI”.
Đến lúc cái tiểu ngã hòa nhập vào cái đại ngã của tạo hóa, cái hữu hạn đã hòa nhập vào cái vô cùng của vũ trụ, để nhìn thấy Chân Như Sắc Không Vi Diệu. Điều mà thiền sư Đạo Hạnh mấy trăm năm trước đã ngộ:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
Có thì có tự mảy may
Không thì cả vũ trụ này cũng không
Có không: bóng nguyệt lòng sông
Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào
(Võ Đình)
Dù sao Tô Thùy Yên cũng đã đến nơi bằng hữu, đến nơi mà ông đã có lần hăm hở và tuyệt vọng ra đi. Thế giới nào cho riêng ông một ước mơ khiêm cung bé nhỏ của tâm hồn người thi sĩ:
...Ở đây ta có dăm pho sách
Và một giòng sông, mấy cụm mây
...Dòng sông u hiển trôi vô lượng
Dòng sông hiền triết chảy vô tâm
Mà ta ngưỡng vọng như Sư phụ
Mà ta thân thiết tựa tri âm...
(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Chúng ta hòa nhập chia xẻ với Tô Thùy Yên cái thế giới âm điệu thanh thoát từ ái mà chúng ta cứ tưởng riêng tư thầm kín nào của ông. Đó chính là cái hơi thở phát tiết từ trí tuệ tỏa ngát hương trầm của truyền thống ngàn năm của tinh thần Lạc Việt. Yêu thương mà không mê muội. Bao dung chứ không bao giờ bi lụy khuất phục. Ông mang tâm thức hùng tráng của bậc hành giả lên đường, khám phá những am mây đạo hạnh, khai mở những thảo nguyên an bình. Những ngọn đỉnh của Tình Thương.
Khi tâm ông thực sự thăng hoa chuyện trở về như một cứu rỗi tha nhân:
…Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay,
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi…
(Ta về)
Nhưng tình huống thực tế đẩy ông ra đi, nghịch lý nội tâm chắc đã làm cho nhà thơ nặng tình với quê hương vương chút bụi trầm luân. Âu cũng là định mệnh. Cho dù hoàn cảnh trôi theo không gian thời gian nào, hãy xin giữ cho Tâm là đường chim chứ đừng như giòng nước. Vì nước đã từng quên mình là suối khi hòa nhập vào đại dương. Chim cho dù ngàn dặm xa cũng còn hy vọng nhớ nguồn cội quay về.
(CÕI THƠ TÔ THÙY YÊN - NGHE NẶNG TỪ TÂM LƯỢNG ĐẤT TRỜI/ Tác giả: THÁI TÚ HẠP)
Thơ ông bài nào cũng dài. Có vẻ là những trường ca của một con người thao thức, băn khoăn, luôn tìm kiếm ý nghĩa của cuộc tồn sinh, lấy ngôn ngữ làm phương tiện đào xới, khai phá, những mong cảm thấu được gì trong cái mênh mang của đất trời.
Ðây là bài ngắn nhất trong số những bài thơ được phổ biến từ trước năm 1975:
Góa phụ
Con chim nhào chết khô trên cửa,
Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ,
Sao người khai giải chưa về thăm?
Em chạy tìm anh ngoài cõi gió
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chân
Em độc thoại lời kinh ánh xanh,
Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
Maí ngói nghiêng triền trái rụng lăn.
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.
Cỏ cây sống chết há ta thán
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.
Thơ ông đầy triết lý. Không hiểu triết thì khó lòng cảm nhận được thơ ông. Giọng thơ mạnh mẽ mà đầy ẩn dụ, dẫn người đọc vào một thế giới thâm u, bí hiểm. Ðọc thơ ông phải nhạy bén bắt ngay được cái tứ, cái thâm nghĩa đàng sau những bóng hình, nếu không bắt được thì phải đọc đi đọc lại, mà đọc đi đọc lại thì không hay nổi.
Nhưng đến bài sau này--có lẽ sáng tác sau khi ra tù--thì lời thơ, giọng thơ, bỗng trong sáng, quang đãng hơn, và cao đẹp một cách hùng tráng lạ thường. Một người bạn chép tặng tôi, chỉ ghi là của Tô Thùy Yên chứ không biết xuất xứ từ đâu. Chẳng rõ qua sự sao chép của một cá nhân như vậy có sai sót chỗ nào không. Ðây, bài thơ hiếm hoi của một Tô Thùy Yên ngày trở về:
Ta về
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế trời câm đất nín
Ðời im lìm đóng ván xanh xao
Mười năm thế giới già trông thấy
Ðất bạc màu đi đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy ghi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm cổ lục đã ai ghi?
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới uống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc trả ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển đời
Bé bỏng thì cũng sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Ðành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài cõi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuôc bể dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Ðời qua lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển đã chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta về như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Ðau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối khóc thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa
Ðêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khuya từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Ðâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Ðọc lại bài thơ thuở thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Ðành không trải hết được lòng ta.
Dàn trải lòng mình qua một bài thơ dài như thế mà vẫn cứ tiếc, cứ đau là đã không còn đủ thời gian để nói hết. Thực ra, ở đời có những người nói thật nhiều mà xem lại thì cũng chẳng nói được bao nhiêu. Ðâu bằng ông, từng câu thơ, từng đoạn thơ ngắn, đã sờ đến nỗi buồn đau vô lượng:
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.
...
Ðau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối khóc thâu đêm
Và bốn câu thơ sau này, đã chạm đến cái vô hạn của từ tâm, cái mà con người và thế giới nhỏ nhoi hiện nay đã quên mất:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Lòng thương đã sánh với mênh mông của đất trời. Từ cái hữu hạn nhỏ bé của mỗi cá thể, không chỉ là cá thể con người, mà ngay cả cá thể một cánh hoa, thi nhân cũng đã cảm nhận được mối liên hệ bất phân giữa "ta" và "thế giới". Nỗi đau và niềm vui của con người được xác định qua liên hệ hỗ tương này. Khi từ tâm của mình mở ra vô hạn thì đồng lúc mình cũng cảm nhận được từ tâm vô lượng của tất cả "kẻ khác"; nhờ vậy mới thấy được rằng hoa đã nở vì mình (mà lâu nay do lòng vị kỷ, mình đã không hề biết).
Như vậy chẳng phải là quá đủ rồi sao! Dẫu tuổi đời có tăng gấp đôi, người ta cũng chỉ nói được đến thế là cùng.
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, học qua Petrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cấp bậc Thiếu Tá trong quân đội Miền Nam trước 1975. Tô Thùy Yên lập gia đình với vợ chánh là bà Huỳnh Diệu Bích. Còn có thời gian chúng sống và có mấy con với nhà văn nữ Nguyễn Thị Thụy Vũ. Sau 1975 Tô Thùy Yên ở tù gần 13 năm. Cùng bà Hùynh Diệu Bích sang Mỹ theo diện cựu tù nhân chính trị. Hiện đang cư ngụ tại Houston
Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng Tạo. Một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh "Thơ Tự Do" trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển Tập Thơ Thùy Yên (1995) và Thắp Tạ (2004) đều được xuất bản ở Hoa Kỳ sau khi ông đi tỵ nạn chính trị tại quốc gia này vào năm 1993.
Các Tác Giả Khác viết về Thơ Tô Thùy Yên:
Lê Thị Huệ, một mình cầm cự Thi Ca giữa cánh đồng,
đọc thơ "Thắp Tạ" của Tô Thùy Yên
Phạm Phú Minh, Đôi điều về tập thơ Thắp Tạ
Phan Nhật Nam, Hãy biểu dương cùng tận
Phương Triều, Kỷ niệm với Tô Thùy Yên
Tô Thùy Yên: thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người
Tô Thùy Yên - THƠ NHƯ NGƯỜI BẤT TỬ
Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11686&rb=08
http://www.luanhoan.net/thoVN/ThoToanTap/pdf/ThoTuyen_ToThuyYen.pdf
http://www.luanhoan.net/thoVN/ThoToanTap/pdf/thapta_tothuyyen.pdf
1 nhận xét:
Bài nầy Nhật Trường và Thanh Lan hát thì nhất ! cảm ơn a.Huy
Đăng nhận xét