Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2012

Vây hãm của cô đơn (Nh Tay Ngàn)

Khởi đi từ những bài thơ trên VĂN, NH. TAY NGÀN là 1 cái tên khiến tôi để ý trong nhiều nhà thơ có bài trên tạp chí của 1 thời ấy. Ấn tượng ngay từ cái tên..có 1 chút gì đó ẩn mật, lãng mạn,,,1 chút gì đó thơ...

Những đường nét táo bạo, và nhiều khi tỏ ra u uất...cùng với chất hiện sinh ngồn ngộn trong thơ của mình, trong 1 chừng mực nào đó, NH TAY NGÀN đã đứng riêng, đã tạo nên 1 lối đi riêng cho mình....mặc dù sức ảnh hưởng và tầm vóc của thơ ông chưa đến và chưa được biết nhiều....

*

Văn - 1966

Văn - 1966

 

 

Văn – 1975

 

 gio-o.com 2011


Trong Văn số 28 ra ngày 15/02/1965 
"Giới thiệu những cây bút có triển vọng đi xa" có viết về Nh. Tay Ngàn như sau: "Nh. Tay Ngàn là nhà thơ có bài được chọn đăng nhiều nhất trong số các bạn trẻ tìm đến Văn. Tên thật là Nguyễn Văn Nhĩ, sanh năm 1943, nguyên quán Vĩnh Bình. Hiện đang theo học ngành Canh nông tại Pháp". 

pic


VÀI HÀNG VỀ NH. TAY NGÀN 


Thuở học Trung học đối với gã học sinh là tôi thường say mê văn chương, tìm đọc Văn, Vấn Đề, Nghệ Thuật... là thứ “khó nhai”, khiến bạn bè cùng lứa ngạc nhiên vô cùng. Không biết sao tôi thường chú ý đến các nhà thơ Nguyễn Quang Hiện, Tần Vy, Phạm Công Thiện, Nguyễn Phan Thịnh, Trần Thị Nhã Ca... và đặc biệt là Nh. Tay Ngàn. Gần đây đọc bài “Nh. Tay Ngàn, lập lòe trí nhớ” của Thi Vũ, trên Website Gio-O, buồn làm sao khi biết tin nhà thơ mất vào ngày đầu tháng giêng năm 1978 tại Paris vào lúc 35 tuổi. Lại thêm một lần giật mình, trong lần trò chuyện với một người viết văn định cư ở Mỹ ghé về Sài Gòn ăn Tết năm 2007, tôi lại nghe thông tin trái ngược là Nh. Tay Ngàn hiện đang còn sống ẩn cư bên ấy, tránh mọi giao tiếp, không muốn liên lạc với giới văn nghệ nữa. Với tấm lòng yêu quí thơ Nh. Tay Ngàn, tôi bèn lục lại một số bài thơ của anh từng đăng tải trên các báo, mong chia sẻ mối tâm cảm cùng bạn đọc yêu thơ.  

TRẦN HỮU DŨNG


....Trong bài "Nh. Tay Ngàn, lập lòe trí nhớ" của Thi Vũ đăng trong Website Gio-O có viết như sau: 

"..... Cùng thời gian lao xao lá ngô đồng ấy, thư Nh. Tay Ngàn gửi tới mừng vui tin tạp chí ra đời. Nhĩ tự giới thiệu sang Pháp du học ngành họa đồ kỹ nghệ, mong được gặp hai chúng tôi và hứa sẽ làm bất cứ gì nặng nhọc trong tòa soạn để đóng góp. Chúng tôi quen nhau từ đó.

Nh. Tay Ngàn, tên thật Nguyễn Văn Nhĩ, sinh năm 1943, mất đầu tháng giêng 1978 tại Paris vào năm 35 tuổi. Chiến tranh là tên tử thần theo đuổi Nhĩ từ tấm bé. Nó đưa đẩy thi mệnh Nhĩ vào ngõ cụt. Cụt nhưng không kẹt trên bước đi khai phá của người thơ. 

...

Nhĩ ít nói, ít tâm sự. Đôi mắt nai đăm đăm. Tôi cũng là người ít nói, gặp nhau chúng tôi hỏi thăm qua loa về cuộc sống rồi ngồi trầm ngâm. Nhĩ dõi theo một cõi ngoài chẳng ai vào được. Một thứ săn đuổi nội tâm và độc thoại. Trực giác tôi cảm nhận, điều ấy làm an ủi Nhĩ. Theo niềm tin cậy này Nhĩ càng trầm ngâm yên lặng như cùng tôi song thoại nơi thinh không. Lâu lâu Nhĩ hỏi một vài câu về chuyện viết lách, văn học, các tác giả...

Có thời Nhĩ theo người bạn gái người Tây Ban Nha sang sống ở Madrid cho đến khi biết mình mắc bệnh lao mới trở về Paris chữa chạy. Rồi Nhĩ quay cuồng theo bệnh tâm thần, người ta đã nhốt Nhĩ vào nhà thương điên Villejuif, vùng phụ cận Paris, với cách đốt điện trên đầu điên cuồng hơn cơn điên. Đây là thời gian địa ngục, mà dấu vết còn lưu trong văn thơ Nhĩ. Ít ai biết.

Nhĩ làm thơ, viết văn và vẽ tranh. Có một lần triển lãm cá nhân tại phòng tranh Louis Soulanges trên đường Montparnasse.

Mối tình đầu của Nhĩ là Liên trong Nỗi Liên đen tối vô cùng, mà Nhĩ trở về Saigon thăm lại năm 1973. May mắn cho Nhĩ là Liên vẫn yêu Nhĩ thiết tha, muốn sang Paris sống cùng Nhĩ. Nhưng cuộc sống không tiền bạc, không nghề nghiệp, Nhĩ đành thúc thủ. Nếu không có vài ba người bạn học cùng lứa thương yêu giúp đỡ Nhĩ, có lẽ Nhĩ đã chết sớm hơn. 

Tôi ít thấy ai say sưa viết như Nhĩ. Âm thầm. Cặm cụi. Không nói. Không ba hoa. Những chuyến viễn trình, những cuộc tình vặt, những đêm đốt thuốc bên quầy bar với rượu rhum từng ngụm cay nhè... chỉ để dàn ra từng dòng chữ chân chỉ trang này sang trang khác. Có hôm tôi nhìn thấy trên 20 tập bloc, dễ cũng trên bốn nghìn trang, chữ nhỏ đều đặn. Từ chữ đầu đến chữ cuối không một lần mất kiên nhẫn, như một vũ trụ kiến kéo nhau đi thành hàng dọc. Khi thơ khi văn. Trong văn học Việt Nam có hai người không viết văn, viết thơ thành bài, mà dàn trải tới vô tận dòng thơ văn không có dấu chấm. Đó là Bùi Giáng và Nh. Tay Ngàn. Văn và ý tưởng, thơ và ý tưởng trộn nhau như chớp với đá kết ngọc. Hết õng ẻo với quá khứ, không thời trang thế cuộc, không nép mình vào ca dao hay bốc khói trên chợ trời văn học. Đọc Nhĩ phải có mắt xanh với tấm lòng rớm máu thì mới cùng Nhĩ song thoại trong "thế giới vốn nhỏ và hạt bụi muốn đau", khi nhà văn Việt Nam "thấy ngu trước nhà văn quốc tế". 

Nhĩ không thích văn thơ Saigon thời ấy, Nhĩ nói : "Có thể vốn sống trong thời loạn ly của họ bị nghẹt nên sanh ra nhiều tánh ganh tị trách móc hoặc ghen ghét nhỏ nhoi, bởi đó mức văn hóa trì trệ rồi rút lì vào ảo tưởng bất nhất kia" (thư viết ngày 17.12.76). Nhĩ không ưa văn thơ tiền chiến và Tự lực Văn đoàn, vì cho rằng: "Giá trị họ ở trong tầng lớp sinh viên học sinh còn trẻ, thiếu sáng tác chứ không thể là giá trị vĩnh cữu cho chúng ta nữa, đành rằng mọi tư thế phê bình luôn toa rập với số đông. Ngay cả tôi hồi nhỏ cũng chẳng bao giờ ưa "tự lực văn đoàn", tới nay chuyện xưa rồi, nhắc lại để tự mình thấy điềm nào đó không hay ho nữa" (thư viết ngày 17.12.76).

Thoạt đầu Nhĩ thích nhóm Sáng Tạo, có lẽ vì chiều hướng đập phá cổ lệ văn chương. Nhưng không hiểu vì sao sau chuyến đi Saigon về, Nhĩ bất bình với Mai Thảo và một thiên tài khác mà Nhĩ ôm ấp trước kia. 

...Đầu tháng Giêng 1978, các bạn của Nhĩ gọi dây nói cho biết Nhĩ chết rồi. Một hôm, bà gác dan (concierge) thấy mấy ngày qua Nhĩ không ghé lấy thư. Bà lên đập cửa phòng. Không nghe hồi đáp, bà lo lắng mở cửa xem thì Nhĩ đã nằm chết trên giường nhiều ngày. Lâu quá tôi quên, nhưng có thể là ở địa chỉ 16, rue Jean Ferrandi, Paris quận 6.

Các bạn hùn nhau làm đám. Thi hài đốt ở nghĩa địa Père-Lachaise, Paris quận 20. Dự tính sau này sẽ gửi tro về Việt Nam. Dường như Nhĩ có một người anh sống ở Saigon. Nghĩa địa Père-Lachaise còn lưu giữ những mộ chí của Gerard de Nerval, Chopin, Balzac, Alfred de Musset, Proust, Apollinaire, Pissaro, Oscar Wilde..." 


Thơ Nh . Tay Ngàn 


MÙA THU THÀNH PHỐ 
 
Một sớm thức giấc anh chợt nhớ ra mình đang ở trong một thành phố xa lạ 

Anh chợt nhớ ra sau cơn mộng kinh hoàng em đã ngàn trùng mây nước kêu gào vô vọng nhớ thương 

Đáng lẽ giờ này em đang nũng nịu trong vòng tay anh, mớ tóc đen mềm mướt, đôi mắt ngái ngủ dịu dàng và bên ngoài nắng ấm dọi qua song

Căn phòng vang tiếng em cười vui bữa ăn sáng mà anh nghe thấy cùng một lúc với giọng chim sẻ ca hát trên những mái ngói 

Rồi anh đưa em qua những cửa nhà thân thuộc, một cái dốc một chiếc cầu con sông chợ nhóm, vườn thú có những lùm cây xanh tươi hoa đỏ và anh rẽ tay mặt

Trên đường về nhà qua những con đường bóng mát anh thường huýt sáo 

Đâu ngờ đến ngã rẽ cuối cùng bây giờ anh ở đây với bầu trời xám thấp, các cửa kính đóng chặt - đóng chặt ngàn đời, những ống khói đen sầm 

Anh lo sợ cho em trong những buổi chuông về bước nhỏ đánh thức mọi vật reo hò kỷ niệm 

Anh lo sợ trong những chiều sụp tối gian phòng vắng lạnh bóng đêm lặng lẽ vây lấy em 

Anh lo sợ ở cuối đêm anh trở về hình bóng chập chờn không sưởi đủ chuỗi ngày em đốt bằng ký ức

Em ơi, đâu còn ai cận kề bên em những giữa đêm mưa dưng không òa khóc

Làm thế nào có thể quên em những khi hoàng hôn sậm mặt

Trong vườn Luxembourg anh ngó anh ngồi im một mình

Những hàng cây đượm vàng lá úa

Mỗi trận gió đem rơi từng chiếc u sầu

Những pho tượng hoen rỉ kia yêu nhau ngàn năm

Cặp tình nhân trong một góc hôn dài đắm đuối

Đâu như đôi ta phải vội vã xa lìa

Để những giọt nước mắt em anh chưa kịp lau

Chưa kịp nếm đắng cay trên môi em đầu lưỡi

Làn tóc rối tung không đợi anh kịp vuốt

Để tháng ngày em xõa mộng thương đau

Em ơi em, làm cách nào em giam giữ hoài con chim giữa lồng ngực

Anh bay ra thương tích đầy hồn

Em ơi em, những nắng mưa bên kia miền nhiệt đới

Với âu lo chuông đổ gió về

Em lụn tàn đêm gối chiếc bơ vơ

Ôi mộng mị nuôi cuộc đời sao đủ

Còn tương lai kia anh mang bỏ giữa rừng

Em lạc lõng giữa hùm beo rắn rít

Với thân gầy em chỉ khóc van xin.

Làm thế nào có thể quên em được khi đèn đường bật lên vàng võ

Trong những nẻo quanh co phố lầu tẻ ngắt

Anh tìm một vì sao như lệ mắt em

Anh chỉ thấy một khung trời mưng mủ

Và hai tay lạnh giá đã dầy. 


pic

Tranh Đinh Cường


 ẢNH TƯỢNG CUỐI THU
 

Khi anh mệt mỏi leo lên ngọn đồi ở miền Orsay 

                            nghe những chuyến xe lửa hú, 

anh dẫm lên lớp lá khô như giấc mộng tàn; 

nhớ lại khi xưa em là đồng bằng mỗi ngày anh núi rừng ao ước, 

muốn gặp nhau anh cất lời gọi vọng, 

em trao tình hoa dại đọng sương; 

giờ anh đã mờ xây xa vắng, 

ngóng về em tiếng gào còm cõi, 

chạm xác xơ mặt cỏ nám u buồn. 
 
Khi những chiều anh đáp xe về thành phố và 

                                        qua vườn Luxembourg, 

nhìn pho tượng trần truồng gục đầu ngó đất; 

lá rụng dày thương nhớ trở vàng thêm.  

 
ĐƠN KHÚC CỦA LIỄU
 
Ba giờ trưa một khúc nhạc sầu

Un jour sans toi

Những chiếc lá tàn rơi  không cần một làn gió

Điếu thuốc đốt lên hình bóng

Và chợt tắt bơ vơ

Kỷ niệm xuống đêm

Ở chót vót của tuyệt vọng

Anh im lìm ngắm hai tay không

Un jour sans toi

Người thủy thủ già từ bỏ biển khơi

Chiếc tàu đã chìm

Căn phòng nhuộm đầy bóng tối

Mền gối bắt đầu rã mục 

Liễu ơi Liễu 

Un jour sans toi

Tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống

Gạch ngói hoang tàn hồn anh

Cùng tiếc thương mọc lan trên đó

Un jour sans toi

Một ngày người thủy thủ già

Vô vọng chuyến ra khơi

Liễu ơi Liễu 

(Văn Số 28, ngày 15/02/1965)

                    MỘT  VỆT  SAO  MỜ

                                                                     CHÂN   PHƯƠNG

 

 

   

    Đầu thập niên 90 lúc mới dọn về ở Cambridge (Boston) tôi rất siêng lui tới thư viện Harvard-Yenching để sưu tầm thơ văn miền Nam trước 1975 trong mớ báo chí Sàigòn cũ. Tình cờ một hôm khi lục lọi mấy chồng bán nguyệt san VĂN, giữa vô số những câu vần điệu phần nhiều là lục bát tôi khám phá một bài thơ tự do của Nh. Tay Ngàn đăng trong VĂN số 25 (15-2-1965). Vừa bàng hoàng vừa thú vị tôi chép ngay vào sổ tay bài  Đơn khúc của Liễu với tâm trạng của kẻ đang khát bỗng được uống từng ngụm suối mát. Đó cũng là lần đầu tôi hạnh ngộ với sáng tác của thi sĩ này. Cái bút hiệu nửa mộc mạc nửa bí ẩn kia trở thành dấu hỏi ám ảnh tôi. Nh. Tay Ngàn, người là ai? Đang lưu lạc góc trời nào? Còn sống hay đã mất?

 

    Tôi dò hỏi trong đám bạn hữu văn nghệ và ít lâu sau có người gửi cho tờ Quê Mẹ, (Xuân Canh Ngọ 1990), trong đó có nhiều trang văn xuôi Nh. Tay Ngàn và một tùy bút-tự sự của Phạm Công Thiện thuật lại cuộc gặp gỡ của họ ở Paris “trong thời gian cả hai đều nghèo đói và chỉ biết sống hết mình với thơ văn nghệ thuật; cả hai thường lang thang suốt đêm trên những đường phố Paris, lúc nào có chút ít tiền thì la cà ngày đêm trong những quán café ở Montparnasse hoặc ở Montmartre. Cả hai đều say sưa viết, mộng và mơ bất tận. … Có lúc dắt nhau ra bờ sông Seine, thòng mấy chai rượu đỏ xuống nước sông, uống rượu say lướt khướt, ngâm thơ Lý Bạch và Nguyễn Du, đọc thơ Apollinaire ngay nơi chỗ ở xưa của thi nhân, ngó những cụm mây trắng ngập ngừng trên tháp chuông nhà nguyện Saint Germain-des-Prés, ngồi quán café ở Montparnasse vui cười ngó nhìn Jean-Paul Sartre dẫn cô đầm trẻ tóc vàng bước qua vỉa hè. …”

 

    Rất có thể  Đơn khúc của Liễu cũng như một số ít bài thơ khác đăng trên báo VĂN vài năm sau đó đã được tác giả chúng sáng tác trong thời gian nói trên vì chúng mang khá đậm không khí của thơ hiện đại Paris, đặc biệt là chất trữ tình bình dân Prévert và âm vang thời gian siêu hình Apollinaire như mấy câu sau:

 

                      Ba giờ trưa    một khúc nhạc sầu

                      Un jour sans toi

                      …

                      Liễu ơi Liễu

                      Un jour sans toi

                      tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống

                      gạch ngói hoang tàn hồn anh

                      …

                                         Đơn khúc của Liễu                                    

 

    Dù chưa tìm ra tài liệu hay nhân chứng nào để hỏi cho biết ngày sinh tháng đẻ tôi đoán rằng thi sĩ lúc ấy khoảng 23-25 tuổi, cái thuở thanh xuân tràn trề hoài bảo của chàng sinh viên VN say mê văn nghệ lại được đặt chân lên thánh địa của thơ văn quốc tế.  Bị ma lực của thủ đô ánh sáng réo mời, tâm hồn tài hoa nhưng non bản lĩnh ấy đã hóa làm thiêu thân…”Nh. Tay Ngàn bỏ học kỹ sư không gian ở Paris, sống nghèo đói cả chục năm hoang liêu, suốt ngày chỉ làm thơ và chẳng bận tâm xuất bản.Rất ít nói và khiêm tốn, không bao giờ tự nhận là thi sĩ, dù đã làm cả ngàn bài thơ tuyệt diệu. …Nh. Tay Ngàn… dám sống cho tới nơi trọn cả nỗi đời nghệ sĩ hiu quạnh, từ chối đời sống khoa cử trường ốc, …,vợ con, việc làm, nhà cửa ấm êm, cô độc đói rét lao cả thân mệnh mình vào thơ, và chỉ biết có thơ và thơ mà thôi.” Người Pháp có hai chữ POÈTE MAUDIT ngắn gọn để tôn vinh những kẻ chấp nhận mọi nguyền rủa của đời đổi lấy sự thủy chung với Nàng Thơ. Hơn cả Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng … còn có thân nhân, đồng bào khi hoạn nạn, Nh. Tay Ngàn hoàn toàn tứ cố vô thân ở Pháp trong những năm tháng túng thiếu, nghiện ngập, lao phổi, điên khùng  … Không hiểu những bóng hình phụ nữ (gái Việt, đầm Pháp, đàn bà Tây ban nha) trong những trang bản thảo của ông có an ủi, khỏa lấp được chút nào niềm tuyệt vọng và ám ảnh hư vô chủ nghĩa đã thấm vào máu thịt nhà thơ?

 

             Rồi mùa thu rủ tôi đi xa

             Tôi đi xa mãi tôi rồi

             Nhằm đêm hoa rụng như ánh trăng

             Tan mù mù trên miệt hải ngạn

             …

             Ánh trăng không thành như cơn huyễn mộng

             của tôi và Liên hôm nay

             …

             Một mùa thu trước Liên xa

             Không còn gì nhớ lại nữa đâu

             Những hàng sao im nguyên ngày ấy

             của con đường Trà Vinh sớm hôm

             Không còn gì ru nhớ làm chi

             …

             Mười hai năm thành điệu gió mùa

             Thổi lưu lạc mỗi hôm mù mắt

             Trên hình bóng Liên xa và xa

             Như hiện thân tôi trôi và trôi

             Mãi mãi với muôn ngàn ánh sao giá lạnh

             …

                                                            Nỗi Liên đen tối vô cùng

 

 

    Cũng nhờ bài viết nói trên của PCT tôi biết được hung tin trễ tràng: “Nh. Tay Ngàn đã chết từ lâu,…chết lúc mới ngoài ba mươi tuổi, tự tử. Người ta tung cửa phòng anh và biết rằng anh đã chết bốn năm ngày. Ông bạn thi sĩ ở G. đã khổ công lắm mới tìm được cả ngàn trang văn thơ của Nh. Tay Ngàn. Cả một sự nghiệp thi văn vĩ đại hãy còn quạnh hiu đâu đó mà chưa có ai hay biết..”

 

    Vài đoạn trích trong bài giới thiệu sơ lược này kèm theo mấy bài thơ dưới đây dĩ nhiên không thể đại diện cho sự nghiệp sáng tác của người quá cố . Hi vọng giới yêu thơ VN sẽ hợp tác để khôi phục lại tác phẩm, đặc biệt là thơ, của Nh. Tay Ngàn; đồng thời bổ túc cho một chương văn học sử VN hiện đại do những nhà thơ Việt từng sinh sống ở Pháp như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Trần Hồng Châu, Nh. Tay Ngàn…tạo dựng nên và đang đứng trước nguy cơ bị phủ nhận hay quên lãng.

 

 

 

    ĐƠN  KHÚC  CỦA  LIỄU

 

ba giờ trưa   một khúc nhạc sầu

Un jour sans toi

những chiếc lá tàn rơi không cần một làn gió

điếu thuốc đốt lên hình bóng

và chợt tắt bơ vơ

kỹ niệm xuống đêm

ở chót vót của tuyệt vọng

anh im lìm ngắm hai tay không

 

Un jour sans toi

người thủy thủ già rời bỏ biển khơi

chiếc tàu đã chìm

căn phòng nhuộm đầy bóng tối

mền gối bắt đầu rã mục

 

Liễu ơi Liễu

Un jour sans toi

tiếng hát cuối cùng nhỏ xuống

gạch ngói hoang tàn hồn anh

cùng tiếc thương mọc lan trên đó

 

Un jour sans toi

một ngày người thủy thủ già

vô vọng chuyến ra khơi

Liễu ơi Liễu

 

 

 

    BÀN  TAY

 

 

trên cao xa kia nhớ nhung nàng chỉ còn mảng trời tím lạnh.

buổi chiều tắt dần tắt dần tiếng chuông,

cây lá sẩm.

nàng vuốt lấy mặt nàng,

thấy ngón tay nàng ướt đẫm.

 

những đớn đau lớn theo đời nàng

nàng đếm mãi trên bàn tay

(ôi những ngón tay yếu ớt như côn trùng đơn chiếc)

còn thanh xuân nàng ư?

nàng hỏi sao mùa đông loài chim ủ rũ

 

ôi những chiều những chiều kéo nàng vào bóng tối

những xót đau khó hiểu của hồn chàng,

chàng đặt giữa vũng tay nàng,

chàng bỏ chàng đi;

rồi mặc tình cho con lốc bi thương cháy rực.

 

nàng vuốt lên thân thể nàng;

ôi bàn tay em đâu là cánh tay anh.

nàng hôn lấy hôn lấy từng chiếc móng.

ở cuối đêm khuôn mặt chàng xanh.

 

 

 

  CHIM

 

 

một sáng thức dậy nàng biết nàng không còn tiếng hót

mặt trời nàng nhìn thẳng

cũng hóa đen

 

rồi mùa rét mang về nhớ nhung

lòng nàng mướt xanh

vết thương tự đấy mưng lên

nàng muốn bay vào miền ấm áp của lòng chàng

nhưng cánh nàng đã mỏi

 

và bắt đầu nàng gọi

rừng chập chùng

căn lầu vườn cây bốc cháy

đêm ơi đêm anh ơi anh

 

 

 

CHÚ  THÍCH

 

Giai phẩm Quê Mẹ ( Xuân Canh Ngọ 1990) với tùy bút của Phạm Công Thiện, Tuyết vẫn bay đêm cuối năm, 83-87; và truyện của Nh. Tay Ngàn, Ngồi như nỗi gió reo cuồng,88-94, là tư liệu cung cấp nhiều thông tin quí về đoạn đời ở Pháp của nhà thơ. Bài trường ca Nỗi Liên đen tối vô cùng trong Tạp chí Thơ 13 (Thu 1998


NH. TAY NGÀN

và bài thơ

NỖI LIÊN ĐEN TỐI VÔ CÙNG

Nh.Tay Ngàn không phải là một tác giả quen thuộc đối với người yêu thơ vì thơ ông ít xuất hiện trên báo chí. Ông qua đời đã lâu , để lại cho đời một bài thơ tuyệt vời:  NỖI LIÊN ĐEN TỐI VÔ CÙNG. Bài thơ được  đăng trên báo Quê Mẹ của nhà thơ nhà tranh đấu Nhân Quyền Thi Vũ Võ Văn Ái ở Pháp, vào thời gian đầu của đợt người Việt tỵ nạn Cộng Sản ra hải ngoại sau 1975. Đây là một bài thơ tự do dài 255 câu, trong đó tên của người thiếu nữ, Liên, đã được ông nhắc đến trên 50 lần. Có lẽ đây là một trong những bài thơ tự do dài nhất trong thi ca Việt Nam.

Tôi có mười hai điệu Liên sầu
Mấy ngày thơ em hẹn tôi như ánh trăng
Đùa quanh tà áo em
Tôi có mười hai năm đi qua trên hơi thở
Run đau khi tiếng vạc buồn hư không
Ngày thơ Liên chờ tôi buổi nắng
Trí nhớ giống mỗi con cánh cam thương yêu
Biết kêu và biết tình ru lòng tơ mộng
Biết những bài trầm ca giấu trong quyển sách vô vi
Có là chữ Như trong đầu bồ tát
của nền không bị lãng quên
Tôi có mười hai mùa thu bị điên trong trí nhớ
Bằng kẻ đời giấu hết đồ ăn
Trong những thành phố Âu Châu đèn đổ
Nước mưa chiều cùng trận bão nội tâm
Khi Liên qua đời tôi là hình thân ảo ảnh
Khóc rất đau rồi khóc cho riêng tôi
  

Có nhiều điều lạ lùng nơi người thi sĩ này: cách chọn bút hiệu, cách đặt tựa đề bài thơ, số câu trong bài thơ. Ngay cả cuộc sống và cái chết của Nh. Tay Ngàn cũng lạ lùng. Ông sang Pháp du học vào thập niên sáu mươi, và một ngày kia người ta tìm thấy ông nằm chết đã hai ba ngày trong một căn gác trọ ở Paris. Nh. Tay Ngàn tên thật là Nguyễn Văn Nhĩ, sinh năm 1943, mất đầu tháng giêng 1978 tại Paris vào năm 35 tuổi.

 Đoàn Thị Thư

 
Bà Om - Trà Vinh - www.fed.cuhk.edu.hk/
 

Nỗi Liên Đen Tối Vô Cùng

Rồi mùa thu rủ tôi đi xa
Tôi đi xa mãi tôi rồi
Nhằm đêm hoa rụng như ánh trăng
Tan mù mù trên miệt hải ngạn
Và lớp sương mốc đổ liên hồi
Tận viễn khơi  những con thuyền sôi nỗi
Lướt qua màn đe dọa khi ly hương
Giữa tôi và Liên hôm nay
Ánh trăng  không thành như cơn huyễn mộng
Của tôi và Liên hôm nay
Khi mười hai năm xuống dần nói nhỏ
Một mùa thu trước Liên xa
Không còn gì nhớ lại nữa đâu
Những hàng sao im nguyên ngày ấy
Của con đường Trà Vinh sớm hôm
Không còn gì ru nhớ làm chi
Những đốm hoa tím tan nhoè
trước cổng nhà Liên đó
Mười hai năm thành điệu gió ngày mùa
Trên hình bóng Liên xa và xa
Như hiện thân tôi trôi và trôi
Mãi mãi với muôn ngàn ánh sao giá lạnh

Tôi có mười hai điệu Liên sầu
Mấy ngày thơ em hẹn tôi như ánh trăng
Đùa quanh tà áo em
Tôi có mười hai năm đi qua trên hơi thở
Run đau khi tiếng vạc buồn hư không
Ngày thơ Liên chờ tôi buổi nắng
Trí nhớ giống mỗi con cánh cam thương yêu
Biết kêu và biết tình ru lòng tơ mộng
Biết những bài trầm ca giấu trong quyển sách vô vi
Có là chữ Như trong đầu bồ tát
của nền không bị lãng quên
Tôi có mười hai mùa thu bị điên trong trí nhớ
Bằng kẻ đời giấu hết đồ ăn
Trong những thành phố Âu Châu đèn đổ
Nước mưa chiều cùng trận bão nội tâm
Khi Liên qua đời tôi là hình thân ảo ảnh
Khóc rất đau rồi khóc cho riêng tôi
Trong số cái chết chập chờn các dãy phố đói
Mười hai năm tôi đốt bằng que diêm
Để ném hai diêm đầu về tử hận
Khi Liên rụng sợi tóc quê hương
Trong những năm chiến tranh dân tộc
Còn lại mười ngón tay buồn
Tôi giấu lửa như tên lùn giấu mưu mẹo
Cho Liên cho Liên cho Liên tôi
Dù đầu thu con chim Việt bay mất
Sau buổi chiều Liên chết bơ vơ
Sau con đường Trà Vinh ngày ấy đổ tối
Những mộng tưởng về phượng hoàng đất dương gian
Trở thành cỏ hoang trên lâu đài nến cháy
Buồn ơi khi khóc đủ trăng trong
Có riêng mình hỏi mình trên bi kịch
Của lá hoa và của tim máu loài người
Vào đợt phù du chảy u mê
Tới mấy tầng xoè móng
Có những hoạn cơn tôi không thấy trong đời
Từ khi Liên nhỏ mỗi đêm lệ xót
Khi mình chờ đợi những mặt trời xa
Mà mùa thu chính giữa đảo hoang thái cổ
Rú hoài hoài các giọng bọn khờ vay
Chính giữa chợ đời đeo bóng u ám
Những điềm linh của không hôm qua
Chỉ hiểu công đời là ăn gian sự sống
Trên của thừa tự thêm nhân gian
Những vết chim khi trời vừa sáng
Bảo nhỏ tôi và con mắt Liên xưa
Trông nhạt mù tít tắp thời gian
Để thở rồi thở như trăng đơn
Để nhớ rồi thở mau
Như dòng đời chiều tối
Một con cánh cam vàng mỗi đêm rưng
Những gì không còn dù tiếng Tâm trong uyên thức
Cho mãi mãi về sau

 
Rodin

Rồi mùa thu đốt lá để quên tôi
Than ôi mùa thu nào tôi không là kẻ vô tội
Giữa đám đông hôm hôm
Những kỷ niệm Liên sầu đã rơi cùng lệ khúc
Trong mười hai điệu sầu thu xa
Và mùa thu đem tôi xa bến đậu
Của những thiên tài cõi đông
Giữa tôi và Liên bây giờ reo thê thảm
Ngày thơ bom lửa đã nhiều
Lớn lên để hớp toàn bệnh cuồng trí
Trong buổi muốn yêu quê hương
Như thương hoài giọng đàn sai nhịp
Đu đưa cuối bãi Cà Mau
Giữa tôi và bàn tay Liên xa xôi
Chỉ còn lại màu đèn xám trơ nơi gác trọ
Và ngày thu báo mười hai thu
Đi qua bãi dâu của Tố Như ngày rộng gió
Sau cỏ Khâu nhớ chết từng sao
Không đọng lại gì trên đất Trạng Trình nữa

Tôi có những bầu trời để giết hồn ma trơi
Nơi xa đoàn thuyền giương buổi tối
Khi chim Việt đầy mày khói đen
Tiếng hận sầu tiễn thu trên đồng thời gian đứng
Tiếng sóng cuồng đổ ập phương Tây
Tôi giấu một con rồng trên bãi không gian mun
Chờ những đoàn trẻ thơ bay qua ốc đảo
Ngày thơ Liên ước gió trời say
Lúc Liên ngủ hai tay che lấy ngực
Gió ấy cứ mùa loà đêm đêm
Than hoài những tình duyên dang dở
Ngày thơ Liên sợ bóng dừa
Đùa gió Tháp Mười sang Cửu Long đầy máu
Nhưng lửa ở tại quê nhà
Đến hôm nay gió đùa thành trò lửa mệnh
Có khi mình khóc một lần thôi
Để cả triệu lần sau kẻ thù của mình chỉ là lời vô bổ
Trong khuôn diện trả vay
Bằng muôn điều bùng đau như mộng yểu
Liên và con cánh cam đầu chớp linh hồn
Buổi mai con bọ rầy say sương nắng
Liên và bầu trời tôi ngất đi
Khi tất cả ngón tay đeo mù giây kẽm
Ngày thơ hoa tím không đòi mộng vàng
Như cơn điên Bao Tự kêu trong tiếng lụa
Liên và ngây thơ bị mưa
Đau ôi khi mặt trời đen  lấm
Những hư vô vào buổi lên đèn
Có lần tôi giữ một sầu khúc không tên
Tôi nhớ cố hương khi tiếng gà réo rít
Liên và cánh dơi Trà Vinh
Xuống mịt mùng đời tôi khi con thuyền chìm trong bão
Giữ mấy phút hư vô reo lên
Lâu đài đầy qụa khoang bên vàm liêu tịch

Tôi có làm gì đâu giữa đất bọn thạo đời này
Tay tôi bỏ rơi từ tâm từ vũng nhỏ
Chợt tiếc đau ở những chiều không thần tượng
Tôi có làm gì đâu cho bản thân tôi
Chỉ còn trái tim tôi tâm sự
Ngày thu đang rụng lá nhiều hơn
Bản sầu ca không còn nàng ca sĩ cũ
Lá và nắng rơi mau
Lá và hoa mùa này đều thẫn thờ đau đớn
Tôi có lạy một chữ danh nào đâu
Trên hoạn tâm con cờ khua như chẳng cần định mệnh
Ngày thu lá cứ vàng rừng
Đoàn trẻ nhỏ say hương con rắn lục
Mai kia sợ rỗng bóng dư đồ

Rồi mùa thu áo cưới Liên đâu
Có phải chim Việt bay hoài trên màu hư không tắt
Mỗi chiều đông cuối chân mây
Gợi quê hương mình bằng đêm móng nhọn
Đổi màu trên những hình hài
Một mai lội ngang cánh hồn hoả ngục
Và muà thu may trí nhớ cho Liên
Luạ nhung hay tơ vàng Kim Tự Tháp
Với cái chết đếm rừng đêm
Heo may lùa ngang mặt cỏ
Tôi theo đó thiếp mê
Thầm gọi Liên như tóc ngày thơ tối ám
Chim Việt không về bến xuân đâu
Bởi vòng quay đổ tan lúc hư không chuyển động
Cùng mỗi vì sao giăng màn
Qua hết thảy thủy chung chẳng còn nghe thấy
Rồi mùa thu hoa rụng trên bóng Liên
Tôi độ chừng đôi bàn tay tôi là lệ ướt
Bởi lệ là lệ của Liên
Bởi lệ hồng là lệ của tình Liên
Khóc dưới vai tôi đêm nào sông Cửu vừa dứt thở
Lệ sầu tôi giấu cho tháng năm
Trời ơi lệ mình lúc ngày thơ là lệ mẹ
Rồi lệ cứ xanh xao
Rồi Liên rồi Liên rồi Liên ôi
Lệ lòng từ đây trở thành biển máu
Trong mỗi ngày mai không còn gì
Trên nỗi nhớ quê hương câm
Trong thành phố tôi đòi chỉ ca ngợi tiền bạc
Có những đời tình bị xóa vào đêm đen
Dưới con cờ và một nghìn bào thai lịch sử
Lệ rời tôi để nhớ Liên
Khi mùa thu may đầy cho Liên áo ly hương một thuở
Nhớ Liên bằng muôn hình ác mộng đóng băng
Môi se lại tơ tằm dưới đầm lầy họp mộng
Những từ tâm phượng hoàng đắp biển dư
Hôm hôm mộng tôi cùng hoang vắng
Sẽ nghĩ rất lâu bằng tình ca
Như Đạt ma rùng mình trong Phạn Ngữ
Cùng sầu điệu cửa  tu Tây Tạng hống
Sẽ nhớ mỗi lần hồn Liên xanh như lục thủy
Cửa những từ tâm bay qua đất trời vàng
Nơi tiếc thương cũng là sầu vọng
Đến mái tây rêu mờ
Có hôm tôi rùng mình nhớ xác
Đã nhuốm mấy trận cuồng dương gian
Những bầu trời tôi còn lửa cháy
Kêu ran tim lúc công chúa đội đèn
Tôi ám ảnh con cánh cam trên đầu chim Việt
Nhưng lửa rủ tôi cầm lại sầu thu
Có những oan hồn nhắn tôi cuộc gặp gỡ
Nơi Liên đã khóc đêm ngày
Trong mười hai năm Trà Vinh đầy quạ
Thôi rồi Liên ơi
Có những ngày thơ Liên ao ước
Quạ trời lợp ổ đầy không gian
Chính phút đớn đau tôi chỉ là cơn gió độc
Quên luôn một sớm trở về
Có Liên và có Liên giữa nắng
Nhưng hôm nay hoa nổ móng tay
Khi con người mình bắt đầu nơi Tam Tạng
Rằng biển dư chẳng thể mộng bao giờ
Nơi đất tâm linh để lại toàn sắt thép
Bởi động huyền vi lún lúc mùa thu rơi
Sau cánh bay rũ riệt
Tôi và Liên một ngày dài
Cánh cửa quê hương đầy vết đạn
Năm nào tối mịt ba mươi
Hoa mai trên cổ Liên thành mùi gió vọng
Xa xa đảo lạ vô hình rồi
Tôi chúc Liên như mặt trời vừa nhận ra tuổi tác
Ngày sau mùa thu bị chết với lá vàng
Bước Liên về bảo rằng tình hoài hương ở trong trí tưởng
Một xưa tôi mong đợi phượng hoàng về đời
Nẻo tình ca cỏ non làm hơi thở
Nhưng đèn vừa rủ xuống mê
Tôi thấy con trăng không cần nói ra ngày giao thừa đất mẹ
Trên mấy phương Tây hao mòn
Tôi còn gọi ra hình ảnh Liên lúc mê man
Tiếng đập cửa dầu là tử thần cuồng nộ
Đêm đêm trăng xẻ đời lệ châu
Tưởng lệ huỳnh bắt đầu lên bóng
Tôi con trăng đêm đêm mùi sa đoạ
Mà mùi quê hương con nít ré đau
Giữa khuya con cánh cam lo buổi mai cơn đói khổ
Trong tim trong não trong hồn
Trong trận huyền bí bắt đầu bằng định mệnh
Và mùa thu làm thành bọng tối loài người

Mộng ngày rũ rượi đó Liên
Ước áo vàng sẽ về đây thành cội rễ
Mấy phôi pha làm lại nước huyễn châu
Tôi có mười hai năm bỏ đi như diêm quẹt
Để hồn Liên là bóng Liên tôi
Để ngày thu tôi đợi chờ Liên viết thư bằng mực tím
Nói thương nói nhớ nói nhớ nhớ anh
Trên giải đất đầy mùi chuột chết
Và tình Liên là mối lặng im chờ
Mộng người đổ máu như tôi thôi
Đến chiều hôm con qụa Tây Phương kêu kêu mờ mịt
Trên mối sầu viễn lưu 
Tôi đốt tôi ru tôi buồn tôi khóc
Tôi âm thầm tôi cháy nám riêng tôi
Ngày tôi đi Liên ôi tôi đi để chết
Với một mặt trăng tôi giấu đợi tuổi già
Như cánh tay Châu Âu nện mòn nước nhược tiểu
Bằng hư vô bằng vô nguyên với hôn mê
Những mộng đời tôi xé vừa tan
Con trăng từ đây chỉ hiện hình hoang cổ
Cho phút sầu ca bi lệ làm đau
Ngày tôi đi tới hôm nay Liên chết
Đất Trà Vinh mưa xuống  mãi tận đầu
Có hay không lúc mình chỉ cầm bằng vô vọng
Mộng đời xưa cũ ấy Liên ơi

nh tay ngàn


Những bài khác về NH TAY NGÀN:

http://www.gio-o.com/ThiVuNhTayNgan.html

http://www.gio-o.com/MotBaiThoHayNhTayNgan.html

Hình bìa Ai Đã Chết Một Mình Chim Xanh Khóc do NH. Tay Ngàn vẽ, và thủ bút trang đầu

2 nhận xét:

..Gió Heo May nói...

Ngay từ lúc đọc vài bài thơ đầu của Nh_Tay_Ngàn chị đã thấy bóng dáng của Phạm Công Thiện thấp thoáng trong cách nghĩ và kết cấu từ ngữ của ông ...Và khi đọc đến những trang cuối cùng mới biết thì ra 2 người đã có một mối quan hệ tình bạn....Một cuộc đời nhiều bi kịch quá có khi lại do chính nhà thơ tạo ra chứ ko ai khác

[H]UY! vespa nói...

dạ, chắc là do có chút gì tương đồng giữa SỰ VÂY HÃM CỦA CÔ ĐƠN và ...IM LẶNG HỐ THẲM hả chị? Em cũng mới biết mối tương giao này và thấy rất thú vị!
À, mà em còn thấy bóng dáng của THANH TÂM TUYỀN trong thơ NH TAY NGÀN nữa chị:)
Chúc chị tuần mới vui:)