"....Những dòng miên man bất tận như những lời độc thoại của nhân vật cũng có thể nói là phong cách sáng tác đặc trưng của bà, đặc biệt trong các truyện ngắn trên Văn…
Bà từng nói về việc VIẾT của mình như sau
“Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra từ quá trình sống… chín này.”
Tôi không biết lúc bà đang sáng tác những tác phẩm này trên VĂN - bà có một niềm ưu tư hay món nợ tình cảm gì đang nợ nần với ai không mà trong mỗi tác phẩm, để lại dư vị trong tôi đều là một chút buồn…loang ra như nền “trời xanh trên mái cao”, cuộn trào như sóng, cao xa tầm tay với, buồn thấm đẫm vào thịt da qua từng con chữ, từng câu văn…Khi chấm hết mội truyện ngắn, Nguyễn-thị-Hoàng gieo vào độc giả một thứ dung môi “độc hại” nhưng đầy thú-đau-thương “ứa ra từ quá trình sống chin” ấy của bà…
Những nỗi buồn “oan trái” đôi khi mang chút ít dằn vặt “hiện sinh” đã từng gây nên ít nhiều “dè bỉu” nơi những người cho văn chương của Nguyễn-thị-Hoàng chỉ là một thứ văn chương “làm dáng”… (như Mai Thảo?!?) Tôi không biết nên đồng tình hay phủ nhận ý kiến này…?!?
Chỉ biết rằng sự “làm dáng” ấy, hay nói đúng hơn là cái ý thức “làm văn” nơi Nguyễn-thị-Hoàng , nếu có, đến từ sự ham muốn biến tiểu thuyết/ truyện ngắn của mình thành một “phương tiện” để lý giải đời sống, lý giải sự “vô-lý” của đời sống và cái hoa mỹ, nếu có, chính là sự khỏa lấp vết thương sâu trong lòng các nhân vật bất hạnh của mình…Vì hơn ai hết, bà biết, cái kết không viên mãn, cái kết dấy lên như một vết sưng tấy… là bản án mà mỗi nhân vật phải lãnh chịu, không hơn không kém…
Những chữ, những dòng, những chấm và cả những-không-chấm trong truyện ngắn Nguyễn-thị-Hoàng…như một chiếc thuyền lòng đã mắt nạn và nằm kẹt lại vĩnh viễn nơi người đọc, những “triết lý”, những câu hỏi liên tiếp reo lên trong truyện ngắn của Nguyễn-thị-Hoàng neo lại trong lòng tôi một chút mơ màng trong đời sống chật chội này, nó cũng đủ làm dấy sáng trong tôi leo lét những lân tinh hy vọng, dù là ít ỏi… hy vọng lấy từ chút hơi tàn sức kiệt muốn sống và phải sống… Cái triết lý ấy từng được Nguyễn – thị- Hoàng nói đến dâu đó trong nhiều tác phẩm
“Trong mỗi mấp máy , bước chân đi vào hay ra khỏi đời sống hỗn tạp mang mang, trong từng thấp thoáng linh cảm hay cỏn con mơ tưởng của con người đều vẩn vơ dấu vết của bước chân định mệnh. Bước chân đó dù ghé dến thềm đời của một người nào, dù dịu dàng hay mãnh liệt, dù thầm kín hay ngang nghiên cũng đều là một ma lực kì dỵ, vừa dẫn dắt ta theo con đường vạch sẵn từ tiềm thức nhưng đồng thời cũng dìu ta lên một cõi sáng láng nào, dù là khoảng cao phải trải qua bao nhiêu vực thẳm của đời sống và tâm hồn. Sự trốn chạy chỉ là một cách để dấn sâu thêm vào vực thẳm. Và sự dấn sâu tâm hồn hay đời sống vào vực thẳm cũng là một cách để cuối cùng bay vút lên cao” (Cho Đến Khi Chiều Xuống – truyện dài)
Cách diễn tả tâm trạng của người nữ trong những truyện ngắn trên VĂN của bà cũng thật đặc biệt và táo bạo: thường là một trào dâng thèm khát yêu thương, thèm khát được vỗ về… tình thương như là một cứu cánh cần kíp cho đời sống trong từng nhân vật của Nguyễn – thị- Hoàng, họ có thể không ăn, không ngủ…nhưng họ phải yêu, phải tận hiến cho tình yêu, phải thở “khói thương nhau”…thì lúc đó họ mới tồn tại…cho đến khi sự bất toại của đời sống xảy đến, những người nữ ấy bàng hoàng nhận ra khuôn mặt đau đớn của đời sống…Buông tay và trượt ngã…nhưng họ, vẫn tiếp tục phải sống, phải đối mặt…
Vẽ thêm nhiều khuôn mặt cho nỗi buồn, Nguyễn-thị-Hoàng còn biến truyện ngắn của bà hấp dẫn độc giả bằng chính cái cảnh huống bà gán ghép cho những nhân vật như chưa thể bi kịch hơn của mình – có khi là khung cảnh của một đêm tối, chàng trai vô danh nào đó gặp lại cô gái nhỏ năm nào, giờ đã “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” trong ĐÊM TÀN OANH TRẢO; bao nhiêu kỷ niệm – bấy nhiêu đau đớn.. ; có khi lại là một hành trình đi tìm sự cứu cánh trong tình yêu của một người nữ đã qua thời xuân sắc gặp lại người em gái nhỏ năm nào…trao yêu thương để rồi bẽ bàng thấy rõ vị trí của mình, chỉ có thể là bên lề của cuộc sống, khi mà “đi chỉ là dẫm đẹp lên chỗ của những người khác ” trong MÙA XUÂN LÁ VÀNG (cũng có thể nói phải chăng Nguyễn –thị-Hoàng là nhà văn đầu tiên chạm đến vấn đề nhạy cảm trong văn chương : đồng tính nữ với tinh tế trong ngòi viết không thể “sensual” hơn) ; lại có khi là một cõi sống mịt mùng trong đó tình yêu tìm đến trong một bóng dáng vừa xa xôi, vùa gần gũi nhưng rồi tất cả cũng chỉ là hư ảnh dể rồi cuối cùng con người còn lại trong chính nỗi bơ vơ cực cùng của mình khi tuyệt vọng ùa đến một cách choáng ngợp và bất ngờ trong BÓNG SAO CHÌM , BÓNG MA…Và rồi nữa, sự hạnh ngộ thoáng chốc, tưởng chừng là một nhịp cầu tương phùng giữa hai tâm hồn lạc loài, nhưng rồi, gặp chỉ để càng xa thêm, vì mỗi người đã tự đẩy mình sang hai bờ của trùng dương cô đơn… trong GỢI NIỀM THÂN MẬT…
….
Nữ nhà văn “hồng nhan đa truân” ấy, sau khi khuấy đảo văn đàn trong một thời huy hoàng của văn chương miền tự do, nay đã chọn cho mình một lối sống im lặng…nói như bà trong trường thiên “nhật ký” NHẬT KÝ CỦA IM LẶNG… phải chăng “bất động cũng là hành tung của một kẻ ẩn mình”…Tôi thấy đâu đó cũng có sự “nổi loạn” ngay trong “phát ngôn” có phần yếm thế kia…
Tôi luôn bắt gặp những suy tư rất riêng, và nhiều lúc, những độc thoại này, như một độc thoại dành riêng cho mình trong truyện ngắn Nguyễn-thị-Hoàng
"...đến một lúc nào đó, ta gặp một người nào, chỉ một lần, dù mến yêu dù thù ghét, cũng chỉ một lần, rồi từ đó cho đến ngày nhắm mắt, vĩnh viễn, dù trái đất còn quay, người ta vẫn có thể còn đi lại, viếng thăm nhau, những đường bay vẫn tiếp tục nối kết mây trời và biên cương nhưng không bao giờ, ta còn gặp lại người đã gặp một lần thứ hai nào nữa, DÙ SỐNG SÓT ĐẾN VẠN TRIỆU ĐỜI TA SỐNG.."
Mai Ninh thực hiện
phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng, Người Yêu Của Đấng Trời.
Trong các nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước 75, Nguyễn Thị Hoàng mang trên thân định mệnh một cuốn tiểu thuyết. Chưa một nhà văn Việt nào được cácthế hệ thanh niên say mê và tác phẩm đầu tay đem đến tiếng tăm lẫn sóng gió nhiều như Nguyễn Thị Hoàng. Vòng Tay Học Trò, thập niên 60, đã biểu trưng tâm tình nổi loạn của cả một thế hệ trẻ trong một thời đại bắt đầu làm quen với văn chương ‘‘hiện sinh’’, trong tình yêu và trước xã hội, với khao khát một cách sống độc lập. Từ Vòng Tay Học Trò đến nay đã gần 40 năm, Nguyễn Thị Hoàng trở lại tiểu thuyết với tác phẩm Người Yêu Của Đấng Trời. Bài phỏng vấn dưới đây, thực hiện qua điện thư, sẽ giúp bạn đọc phần nào biết thêm mối tương quan được tác giả xem như một ánh chớp của tâm thức, trong cuộc đi tìm và bắt gặp, giữa Nguyễn Thị Hoàng và Người Yêu Của Đấng Trời.
1.
MN: Từ nhiều năm nay, ngoài Nhật Ký Của Im Lặng, ít hoặc hầu như không thấy xuất hiện tác phẩm của Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn Việt Nam trong lẫn ngoài nước, xin chị cho độc giả Hợp Lưu biết lí do của sự vắng mặt này.
NTH: Rất cám ơn câu hỏi đã minh định được tình thế của NTH: không thấy xuất hiện tác phẩm của NTH trên văn đàn VN Trong lẫn Ngoài nước. Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, NTH vẫn ngạc nhiên là mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra từ quá trình sống… chín này.
2.
MN: Cho đến nay tác giả Nguyễn Thị Hoàng đã cho ra đời bao nhiêu tiểu thuyết? kể cả tác phẩm đã hoặc chưa xuất bản. Chị quan niệm thế nào về một tiểu thuyết hay? Nó chỉ cần quyến rũ người đọc, hay nhất thiết phải chuyên chở một tư tưởng?
Cũng xin chị cho biết, những nguyên tắc cùng cảm nhận khác biệt nào đã có khi chị viết tiểu thuyết thay vì các thể loại khác, chẳng hạn như truyện ngắn, tùy bút, ký.
NTH: Chỉ mới cho đến hôm nay thôi, trên 30 cuốn đã xuất bản, khoảng 10 thì chưa (gồm những thể loại khác tiểu thuyết). Chỉ là những dấu chân đã qua, dù vẫn trên đường. Nhiều để làm gì, chỉ cần ba, vẫn chưa có mặt.
Thế nào là một tiểu thuyết hay thì có thể đáp gọn trong vài chữ, có thể thuyết trình trong một lần nói huyên thuyên, ở đây vẫn chỉ góp ý chìu theo câu hỏi:
Hiếm có một tiểu thuyết nào đáp ứng được mọi thể loại và đẳng cấp độc giả. Tính quyến rũ, nếu có, chỉ cho một phần nào trong tất cả độc giả. Yếu tố quyến rũ chỉ là một phần trong toàn thể những yếu tố khác quyết định giá trị tác phẩm; còn tùy cái gì làm nên sự quyến rũ.
Tiểu thuyết chuyên chở tư tưởng, chất liệu cần thiết để đắp xây hay phá hủy; nhưng tư tưởng lại không chuyên chở được tiểu thuyết - đương nhiên không thể là yếu tố chính để “làm hay” mà động lực tồn tại qua không gian và thời gian. Một cuốn sách hay do tư tưởng thì không là tiểu thuyết mà luận thuyết. Một tiểu thuyết hay hội tụ nhiều yếu tố, cách thế cảm nhận suy nghĩ trước tự thân và ngoại giới của tác giả, được thể hiện trình bày nó chân thực hồn nhiên như hít thở. Nên nếu phải hít thở theo nhịp điệu nào đó thì chỉ là bài tập thể thao không còn tự do sáng tạo. Nếu người viết có xúc động để sáng tạo thì người đọc mới xúc động được sáng tạo ấy.
Là một tác phẩm văn chương, nên văn chương vẫn là yếu tố tiên quyết. Ngôn ngữ âm điệu, cách sử dụng, như kiếm báu, dẫu rèn đúc hay lưu truyền thì hiệu lực không do chính nó mà từ kiếm khí, cách khác, là cung cách thể hiện một hiện thể.
Tiểu thuyết hay khi người đọc mỗi một và tất cả dẫu khác xa nhau, đều tìm thấy một phần mình muốn, thích, cần sống không có được trong đời sống. Qua tiểu thuyết, người đọc sống lấy mình bằng xúc động và đồng cảm với tác giả.
Sự quyến rũ, ở vật thể hay phi vật thể là hiệu quả của chất chứa và phóng tỏa một nội thể đã sống lấy tận cùng nó.
Về nguyên tắc và cảm nhận khi viết tiểu thuyết thì, một dàn dựng không công phu nhưng phức tạp uyển chuyển theo chủ ý hay chủ đích riêng, giữa các sự kiện nhân vật bối cảnh có thực cùng mức độ và khả năng (hoặc tài năng) phóng hóa nó để mỗi sinh vật thể được là như thế khi nó chưa là hoặc không bao giờ là như thế. Chỉ có xúc động của mỗi nhân vật mà tác giả hóa thân hay nhập vai tùy lúc là có thật. Riêng đối thoại và diễn tả về những trạng thái ấy thì hay hay dở tùy theo khả năng vận dụng tính đạo diễn của tác giả. Cách của NTH, chỉ khi cảm nhận được tận cùng (xúc động hay chấn động tận đáy thẳm linh hồn) đến rơi vỡ nước mắt (đôi khi nước mắt trên môi và nụ cười trong mắt) về một vẻ đẹp (không phải chỉ beauté esthétique1!), lòng đau hay niềm yêu thì khởi sinh sáng tạo như một ứa tràn hồn nhiên không ngăn cấm, không hạn chế.
Tiểu thuyết là thế giới tác giả sống lấy mình nơi mỗi một nhân vật, hoặc ít ra là sống với, một thể hiện hoàn toàn tự do về mọi nỗi niềm và cách thế, vô điều kiện, hoặc điều kiện duy nhất: mình có đáng là như thế hay không.
Truyện ngắn lại khác, cần súc tích, bao gồm, trọn vẹn và bắt buộc hạn chế, vì kiến trúc sự kiện lẫn nhân vật, vì ý tưởng xoay quanh một trục thèse2 nào đó cho một lãnh vực của nhân sinh. Nó cần chuyên chở; nhắn gửi một thái độ, một quan niệm, tối thiểu là một ý kiến, xao xuyến nào đó của tác giả về một vấn đề hay một hiện tượng, một tình trạng.
Thời này, tự do được tuyên dương nên người ta cứ viết gì tùy thích, xong gọi là ngắn vì không dài, tùy bút vì không chủ đề, ký vì chỉ muốn nhận mà không phải tốn hao gì cả.
3.
MN: Hợp Lưu số này được hân hạnh giới thiệu một chương trích từ tiểu thuyết ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ chưa đăng báo cũng chưa xuất bản của chị, và theo ghi chú ở Lời Ngỏ thì chị đã khởi đầu cách đây 13 năm. Đây là một tác phẩm mà trong đó chị đã luận giải những tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. MN đọc thấy hai đoạn như sau :
‘‘Tất cả đều in bóng lên nền xanh bát ngát của lòng trời, và những đôi mắt linh hồn mãi mãi tìm nhau, vẫn dồn trút niềm yêu và nỗi đau trong cái nhìn đáy thẳm tuyệt vời của im lặng và bóng tối.’’
…..
‘‘Khoác lên trái tim chưa yêu của Chúa một vầng hoa nguyệt quế nghìn thu. Và trái tim nào đã yêu đến tan nát cả chân như thể tánh mình, hãy lấy búa kim cương đóng lên một chiếc đinh vàng, để dưới bóng Chúa lung linh nến hồng thuở trước, trên tình yêu không bao giờ có thực của chúng ta, một giọt máu trường sinh nhỏ xuống.’’
Như thế, phải chăng có sự mâu thuẫn? : Linh hồn tình yêu tìm nhau trong đáy thẳm của im lặng và bóng tối, vậy là đã tin có tình yêu, rồi sau đó lại hoài nghi, hơn cả hoài nghi nữa, một xác tín, là nó không bao giờ có thực.
Theo chị Hoàng, Chúa chưa từng yêu? Vì sao lại phong quang cho ‘‘Trái tim chưa yêu’’ này bằng một vòng nguyệt quế ?
NTH: Nếu đọc hết toàn bộ gồm những chương khi chưa cắt xén trong sách lẫn những đoạn đã tháo gỡ bớt thì NYCĐT không luận giải gì, lại càng không có ý thiết lập tương quan giữa Tôn giáo, Con người và Tình yêu. Tình yêu nơi đây, dẫu thế nào, chỉ là ngọn lửa sưởi ấm soi sáng, phản chiếu tính cách của một siêu thể trên đường đi và đến. Cũng không luận giải một tôn giáo mà chỉ là cách thế nhìn ngắm, xao xuyến đối với một biểu tượng, một hiệu lực, của một kẻ (tác giả) không phải tín đồ Thiên chúa giáo, lại càng không đọc, hiểu gì về tôn giáo này. Còn Con Người thì không phải con người nói chung, mà Con Người viết hoa nào đó trên hành trình chuyển hóa và thắng vượt để trở thành.
Mâu thuẫn, nếu có thì từ phía nhìn khách quan. Thuần túy chủ quan của tác giả (chép lại cảm nhận mình hơn là luận giải một vấn đề), trên những dòng này của Lời Ngỏ, mỗi câu đều có định ý riêng. “Trên tình yêu không bao giờ có thật của chúng ta”, ý nghĩ của người viết khi nói với một con người. Có thể chỉ là với một cái bóng, nguồn cơn của đối thoại. Một ý niệm trừu tượng, một đối thể không có thật, tình yêu vì vậy cũng không bao giờ có thật trong trạng huống này. Nhưng nếu mà yêu, người viết hay nhân vật hay bất kỳ ai, nếu đã yêu đến mức tan nát cả chân như thể tánh mình thì xứng đáng với một khổ hình trừu tượng tuyệt vời: búa kim cương đóng đinh vàng (MN này, đinh vàng thì vô khối, nhưng biết tìm đâu ra búa kim cương?), chỉ là một giọt máu từ vết thương vĩnh cửu này sẽ nối truyền đời đời sự sống. Trong phạm vi lời này, chuyện này là như thế. Còn tình yêu có thật hay không bao giờ có thật, như một định lý phổ quát, thì là một chủ đề khác. (Khi nào HL hay diễn đàn nào cần, xin cứ gọi, sẽ thưa sau). Tất cả đều là trừu tượng, chỉ niềm đau không cùng tận là có thật. Niềm đau hơn cả sự chết. Sự chết chỉ là một hơi thở, niềm đau thì không cùng tận. Chẳng phải thế giới cũng đang đau không cùng tận bằng chính tay con người đóng gõ đó sao?
Chúa chưa từng yêu? Chúa, Jésus thật, đã từng yêu hay chưa làm sao một con người trong khoảng cách không gian thời gian và mọi điều kiện khác lại có thể biết được Chúa đã từng yêu chưa? Điều ấy ngoài Chúa ra không một ai được biết đúng, đôi khi kể cả trời.
Nhưng hai điều cần được nói ra: nhân vật (vì là trong tiểu thuyết) Chúa trong cảm niệm của người viết, giữ mình trọn vẹn thánh tính trên hành trình đi và đến, không tiếp nhận ở mình với mình, mình với người khác cái gọi là tình yêu hạ giới, dẫu đến như thế nào, dành mình cho tình- yêu- tuyệt- đối-không- cùng- tận đối với trần gian. Một vòng hoa nguyệt quế ( chiến thắng, thắng vươt) cho một thánh tính, vầng hương nơi một bông hoa, hay bông hoa cho một vầng hương, sao lại không?
4.
MN:Tin rằng Chúa chưa yêu, hay giả là Chúa có yêu nhưng đó là tình yêu biển trời bao la, tình yêu cho mọi nhân loài, và dựa theo cả cốt truyện, nếu bây giờ độc giả cho rằng tựa cuốn tiểu thuyết này nên là ‘‘Người Yêu Đấng Trời’’, như thế sẽ thích hợp hơn ‘‘Người Yêu Của Đấng Trời’’ thì tác giả Nguyễn Thị Hoàng nghĩ sao ?
NTH: Sách chưa được in lại phải giải thích một điều trong sách thì thật… chưa từng có. Đành vậy, biết sao hơn trong tình thế cũng chưa từng có này.
Theo lẽ, thì NYCĐT phải là nhân vật chính của câu chuyện. Nhưng theo bố cục tổng quát một dàn dựng gồm ba bộ: Ông Chúa, Ông Phật, Ông Người, thì vấn đề (hay tương quan giữa nhân vật và Đấng Trời) không phải ở chính mỗi bậc vị này mà nơi đáp số hay hiệu lực của họ đối với nhân loại. Trong NYCĐT giai đoạn trước có ba nhân vật Jésus, Maria, Madeleine, vai phụ hay doublure3 của J., Angel. Giai đoạn sau là Dominico, Thérèse. Ai làm nên và đem lại hiệu quả nơi trần thế đúng ý Trời thì đó là NYCĐT. (Xin hiểu Trời theo nghĩa là Đại Huyền Lực Vũ Trụ vận hành cuộc Tiến Hóa muôn loài).
Vậy nên, NYCĐT không phải Jésus. Thế thì ai?
5.
MN: ‘‘Không phải Chúa chịu khổ hình, như một biểu tượng cứu chuộc thương đau như cũ, vì con người không còn biết xúc động trước cái đẹp siêu linh hay những giá trị tinh thần tột đỉnh mà bằng một vóc dáng, một thể hiện mới, trên biểu tượng lẫn hành vi, đáp ứng được cơn đói khát đương thời mà con người đang gào la khắp cùng thế giới thì quả thật đó là Chúa trở lại, một Chúa mới của con người đương đại.’’
Đây là tư duy của Bà Nhất, người sơ trưởng trong tu viện, về sự trở lại của Chúa với con người mới. Con người đương đại khác với con người thời Chúa chịu khổ hình ra sao? Con người thời nay không còn những xúc động siêu linh mà chỉ muốn Chúa đáp ứng đòi hỏi của họ? Chị quan niệm như thế?
NTH: Chỉ khi xuyên suốt một tác phẩm (không cắt xén một phần, một chương hoặc dẫu một khúc đoạn nào) mới nắm bắt trọn vẹn được ý định tác giả. Lời của Bà Nhất chỉ là ý kiến dẫn khởi cho hàng loạt những biến chuyển về sau sẽ giải trình ý định ấy. Thời này, thời ấy khác nhau, nhưng con người thời nào cũng đều có xúc động và đức tin, phóng tỏa hay giới hạn tùy thuộc vấn đề và nhu cầu sống từ môi trường quanh đời. Con người đi dạo trong thiên nhiên phóng khoáng sẽ cảm ứng nhanh những quyền phép siêu linh, con người trong thang máy chỉ trông cậy vào cái nút bấm để xuống lên và đôi khi sống chết vì.
Vấn đề là thời này Ý Chúa có được thể hiện nối truyền đúng và do đó hiệu lực có còn trọn vẹn không. Đức tin và khát vọng về cái đẹp mãi mãi tồn lưu nơi con người, nhưng với những nhu cầu khẩn cấp và cay nghiệt hiện thời, con người mong muốn và đợi chờ cái hiệu quả tức thì và hiển nhiên như một công thức hay đáp số giải được mọi bài toán khó. Không phải là một Chúa mới hay Chúa trở lại mà một con người có vóc dáng và tính cách Chúa, nhận ra toàn bộ vấn đề xưa sau, xoay vần và phục sinh lại Ý Chúa.
6.
MN: Vẫn nói về ‘‘xúc động’’, trong chương cuối của tiểu thuyết, Chúa của tác giả Nguyễn Thị Hoàng đề cập và phân biệt tách bạch ‘‘Con người trên trái đất’’ và ‘‘Giống dân trên các hành tinh khác’’ của giải ngân hà. Chúa ở đây, còn cho rằng con người trái đất có thể thua các sắc dân ấy về trí tuệ và nhiều cơ năng khác nhưng hơn hẳn họ ở khả năng kỳ diệu là biết cảm xúc.
Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học hay cũng là do trí tuệ siêu phàm mà Chúa đưa ra luận thuyết ấy? Chúa nói ra những điều đó trên cương vị một con người trái đất hay Đấng Trời bao trùm cả vũ trụ?
NTH: Câu hỏi đã phân định rõ, Chúa của tác giả NTH. Vậy những lời nói ra của Chúa trong tiểu thuyết này không phải là của Chúa Thánh Kinh mà chỉ là những suy nghiệm của người viết. Nếu là nghiên cứu biên khảo thì lời Chúa biên khảo phải đúng là lời Chúa. Trong phạm vi tiểu thuyết, một sáng tạo, hoặc phóng tác, mô phỏng thì cũng như trang phục, vóc dáng, chuyển động, hành xử, lời lẽ một personnage4 có được phép là, của, do, từ, bởi chính người viết không? Dựa trên căn bản nào, khoa học, thần học, trí tuệ siêu phàm. Chủ từ chữ “ dựa” trong câu hỏi hẳn là người viết. NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất “dốt“ và sợ cái gì liên quan đến khoa học. Còn thần học thì lại càng thất thần… học. Về trí tuệ siêu phàm, tắt là siêu trí, hiểu biết vượt trên mức độ và giới hạn trí tuệ bình thường? Nếu chỉ là cách suy nghĩ của người viết thì không trên cương vị nào ngoại trừ một Cõi Không vô cùng tận. Nơi đó có Trời, Đại Huyền Lực vũ trụ.
Bằng cách nào mà như thế? Điều này thuộc về tác giả và không liên quan đến tác phẩm.
7.
MN:Trong Thánh Kinh, Marie-Madeleine trước là một gái làng chơi bị người ném đá. May có Chúa đi qua và nói với đám đông : Ai thấy mình không là kẻ có tội thì được tha hồ ném. Thế là mọi người bỏ đi. Đây là một câu chuyện hay và thuyết phục. Không thấy chị Hoàng đem vào tiểu thuyết?
NTH: Có nghe nói về “ Madeleine bị ném đá”. Vì không đọc thánh kinh (lại dốt!), nên không lấy chuyện này và có thể còn nhiều chuyện hay khác nữa đem vào tiểu thuyết. Điều chính yếu trong NYCĐT là tâm mạch mà không là sự kiện, đúng hơn là giả thuyết về tâm mạch. Mỗi tâm mạch lại phản chiếu tâm mạch khác trong tương quan, theo hướng đích của hành trình chuyển hóa.
8.
MN: MN xin có câu hỏi cuối về tác phẩm, có thể nói là một công trình này của chị. Trong lời ngỏ, chị viết: ‘‘Cái trống rỗng hao hụt hiện lên thay thế vị trí đường nét tuyệt vời của một tác phẩm thành hình.… Để được là tặng phẩm đầu tiên và cuối cùng cho một niềm yêu, cho một nỗi đau, một sự sống khởi đầu từ cái chết.’’
Đó là ý nghĩ trước ánh chớp loé, trước khi viết. Vậy khi tác phẩm đã thành hình, đã viết xong, chị cảm giác ra sao? Đã được hồi sinh? Và có được ở trong tay Chúa?
NTH: Công trình nào cũng đòi hỏi nỗ lực và thời gian thực hiện. Dẫu hiệu lực thế nào, tác phẩm này vì thế, không phải là một công trình, mà chỉ như một đoản khúc viết nhanh từ ánh chớp tâm linh. Chỉ khi nghe lắng được Mình, một Mình vắng lặng, riêng tư mà chan chứa, NTH mới viết, đúng hơn là chép ra những lắng nghe ấy. Nếu hiểu chết trong nghĩa lớn, thì mỗi đời trong Cõi Khổ này đã phải chết đi và sống lại biết bao lần, mỗi thể loại vì một nguyên nhân hay động lực khác nhau. Trận hồi sinh ở NTH không phải từ viết hoặc viết xong, mà từ bắt gặp nguồn cơn phát sinh xúc động sáng tạo (tạm gọi là như thế), đôi khi là thực thể, đôi khi trừu tượng, hoặc những phóng hóa trừu tượng đến chỉ là ảo giác phủ trùm long lanh trên thực thể vốn chẳng là gì. Đó là bi kịch lớn của một loài mãi hoài đơn độc, như sơn dương đầu ngàn uống bóng mình dưới suối trăng tan!
Trong tay Chúa ư? Không trong tay mà đối diện, với khoảng cách giữa mặt đất và vòm trời. Không trong tay Chúa. Không trong tay người. Không trong tay một ai, trừ một thứ hình như là Định Mệnh.
9.
MN: Xem như đã hỏi xong về tác phẩm, bây giờ MN xin được phép dấn sang chuyện đời thường. Bằng hữu trong nước hẳn luôn tới chơi với chị, riêng bạn bè từ nước ngoài về, MN biết nhiều người thích đến uống một ly rượu, trò chuyện với Nguyễn Thị Hoàng. MN vẫn còn nhớ vài buổi sáng Saigòn dìu dịu trong không khí những ngày cận Giáng Sinh, ngồi trước cốc cà-phê, thảnh thơi nghe chị nói về những hạt bụi lung linh trong nắng và trong cả con người. Rồi từ con người chung chung đó, chị nói đến con người riêng trong MN, qua cái nhìn của chị. Thú thật, ngoài những phân tích nhằm xem phản ứng người đối diện ra sao ấy của chị, thì cử chỉ, lời nói và cả nét mặt của một nhà văn đã làm cho MN, của một thời mới lớn mê mẩn với’‘Vòng Tay Học Trò’’, vừa bị lôi cuốn vừa ngỡ ngàng, trước một Nguyễn Thị Hoàng ngày nay toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực. Chị Hoàng có thể cho biết cái lực đó đến tự nhiên hay là do luyện tập mới có, được chăng?
NTH: MN đã “nhận ra” được NTH nhưng lại hiểu oan một tính cách (toát ra một thứ gì tạm gọi là ma lực). Tuy nhiên, không biết rõ chữ ma lực dùng trong ý tứ nào của MN. Thông thường thì Ma lực đối nghịch với Phật lực. Nhưng ma lực theo nghĩa một sức cuốn hút kỳ bí thì lại khác. Hoặc hiểu theo kiểu phù thủy yêu tinh thì tình thế trở nên rùng rợn hẳn. Nghĩa nào thì tùy theo ngắm nhìn và cảm nhận mỗi phía, NTH tự hiểu. Mình không nhìn thấy mình được để biết ra sao trong tương quan. Nhưng chỉ trong những tấm gương soi là một đối diện tương đương và tương thông, cái LÀ sâu thẳm và chân thật mới hiện ra hồn nhiên không… diễn xuất.
Cái được gọi là ma lực ấy, tự hiểu chỉ là chút hắt bóng lung linh từ ngọn lửa nén của nội thể âm u một con người tưởng là tung hoành mà kỳ thực đã trọn đời nín sống, nói cách khác, đã chưa và không bao giờ tìm thấy vóc dáng cuộc đời đúng như tính cách và tầm cỡ mình.
10.
MN: Để kết thúc, MN muốn biết, ‘‘Vòng Tay Học Trò’’ bây giờ là gì, với Ngưyễn Thị Hoàng?
Chị có thể kể lại cuốn tiểu thuyết này đã ra đời ra sao, do đâu, đã được đón nhận và chống đối thế nào trên các diễn đàn văn chương Saigòn thời đó?
MN nhớ, sau buổi ấy, khoảng năm 1970, bên Pháp ra cuốn phim ‘‘Mourir d’Aimer’’ (Chết vì Yêu) với Annie Girardot, cùng một đề tài: Một nữ giáo sư yêu cậu học trò trẻ tuổi và bị sự phản kháng mãnh liệt của bố mẹ cậu ta nên đi đến tự vận, cuốn phim rút từ một câu chuyện thật đã gây ra lắm xôn xao, báo động, trong các gia đình và học đường. Ở Việt Nam, có những phản ứng tương tự của phụ huynh học sinh hay không, với cuốn truyện của chị?
Tấm ảnh chị cho đăng trên Hợp Lưu số này có phải là hình cô giáo Hoàng thuở ấy?
NTH: Đành phải nhắc nhở vài hàng về sự tích VTHT ngày xưa. Chán chương trình, không khí ở Văn khoa, Luật, bỏ học, đi làm không lâu lại bỏ việc này (thư ký riêng của một tỉ phú) 1960, tìm việc khác 1961. Được bổ nhiệm về Nha-Trang dạy học, trường nơi đây từ chối; chuyển lên Đà-Lạt. Trường nữ dư giáo sư, trường nam thiếu nên xảy chuyện “hoa lạc giữa rừng gươm”, 1962. Năm sau bỏ Đà-Lạt. Mùa hè 1964, một xấp pelure5 ố vàng, một cây bút gì đó, viết một hơi một tháng, VTHT. Bách khoa in mấy kỳ, thiên hạ xôn xao. Nhưng sau đó chuyển cảnh qua chồng con, bản thảo VTHT xếp lại. Đến 66, một nhóm tìm kiếm VTHT, xuất bản. Tái bản 4 lần trong vòng mấy tháng. Sóng gió nổi lên từ mọi phía, vì những lý do và động lực khác nhau. 5 tờ báo, cùng nhất loạt lên tiếng phê phán, chỉ trích, tóm lại là chửi bới. Rất tiếc cuộc biển dâu cuốn trôi không còn một mảnh tài liệu nào, còn trí nhớ NTH thì chỉ gạn lọc lưu trữ những gì tốt đẹp. Hình như nhân danh hay đại diện phụ huynh học sinh, nhà trường gì đó có lên tiếng trong một bài báo. Không có những phản ứng trực tiếp tương tự như trong phim đối với cuốn truyện, còn gián tiếp thì không biết.
Khi viết, với không phải viết cái gì đã sống, mà trên khung cảnh, sự kiện, nhân vật của khoảnh khắc thoáng qua “trong vai” cô giáo ấy, tăng giảm biến đổi để đúng vóc dáng một câu chuyện. Đã không tính đến chuyện viết tiểu thuyết hay hình thành một tác phẩm với dụng ý, mục đích nào mà chỉ góp nhặt lại những mảnh vụn của một khúc đời đã vỡ.
Thế mà nó trở thành tác phẩm, tác giả với hàng loạt những hệ quả sinh khắc liên hồi từ ấy.
Được lồng bóng trong một giai đoạn thời sự bất an, những ngộ nhận phê phán không thuần túy qua lăng kính văn học nghệ thuật mà nhiều vấn đề ngoài nó.Cái nhãn hiệu độc dược hiển nhiên dễ dán là vô luân lý đạo đức, hay một chữ gì đó tương đương hoặc nặng nề hơn.
Nhưng nó là như thế nào so với hàng loạt những tác phẩm đã dịch và in ra, những câu chuyện có thật trong đời thật. Trong VTHT hay bất cứ đâu, nếu cô giáo yêu một học trò ngoài lớp mình dạy bị kết án thì những mối tình hay hôn nhân giữa thầy giáo với học trò(chuyện thường thấy), lớp mình hay lớp khác trong trường, thì được phép, tại sao?
Nên hình như chủ đề chỉ là cái khiên, những mũi tên nhắm phần sau là một trường hợp, của một giai đoạn.
Nó là cái chìa khóa mở cửa vào một thế giới, nhưng hơn mười năm sau, cũng là thứ chìa khóa đóng kín thế giới ấy lại để có mặt bỗng nhiên vắng mặt.
Nó là cái khởi đầu muốn chấm dứt tất cả những gì trước và sau nó, nhưng thật phản tác dụng, nó lại là cái tín hiệu, là mối nối của những tương giao, hiệu ứng hai mặt của một tính cách định mệnh. Bởi, nó gián đoạn, chôn vùi gần kín thời gian một đời người hay một đời viết, nhưng bù đắp, cái gián đoạn chôn vùi này lại lắng đọng và tích lũy một tố chất cuồn cuộn khác trong hồn nhiên tự tính.
Trên tất cả, nó đem đến những kiếm tìm gặp gỡ và bù đắp cái không là gì cả mà là tất cả của hôm nay, như giọt lửa sau cùng dưới đám tro vùi, thắp lại được một phần còn mong manh mà kỳ thực là cái khởi đầu chờ mong của SỐNG và VIẾT.
Khoảng 71, 72 gì đó, Kiều Chinh và Đặng Trần Thức có tìm gặp NTH định làm phim VTHT. Về sau lại thôi, hình như vì sợ đọ sức với Mourir d’aimer của Pháp. Sau đó (sách hay phim) ai làm gì liên quan đến VTHT, NTH hoàn toàn không hay biết, cho đến nay. NTH vẫn vấp phải những thứ tương tự oan khiên như vậy. Sự thật, những thứ kia là thuần túy phim ảnh, tiểu thuyết, phía mình thì trích dẫn và phóng tác bằng chính những mảnh vỡ đời mình. Ví dụ, một thời gian sau cuốn Ngày Qua Bóng Tối, NTH xem Un Certain Sourire của F. Sagan. Những nhân vật trong NQBT của NTH lại giống như Luc (với Rossano Brazzi Ý), Bertrand, Dominique và Francoise, chỉ khác ở F.S thì phá phách, ở NTH thì rã rời (trong truyện này).
Tấm ảnh nào trên HL? Có người về khi đi mang theo mấy tấm hình NTH trong thời gian viết VTHT, sau khi ra khỏi vai trò cô giáo thoáng qua. Có phải trên trận biến hóa liên hồi của những vai trò và tính cách, con người (hoặc NTH) không thể khoác áo sai lúc và nhầm vai? Chỉ mỗi một điều ngàn muôn năm không thay đổi, cái là tự tính bất biến, hoặc “luyện tập” (không phải luyện tập để có ma lực!), để trở thành bất biến hoại, để có ai còn tìm kiếm kiếp nào sau, còn nhận ra và gặp lại.
NTH xin lỗi về những lời đáp lại không vừa ý những câu hỏi; trong phạm vi bài này và từ mọi phía thắc mắc chưa gặp được nhau. Bởi vì NTH đã không thu nhỏ hoặc phóng lớn mình theo thói thường của một phỏng vấn xưa kia. Chỉ vì những câu hỏi trên đã “chạm mối thương tâm”, nhức nhối mấy mươi năm trời nên đành phóng tỏa không đắn đo suy nghĩ gì hậu quả những lời mình. Cám ơn, MN và “ai đó” (biết có chữ nào qua giới hạn chữ nghĩa?) đã giúp người câm- câm thời khí, không phải bẩm sinh- bỗng được nói “sau ngần ấy năm trời”. Còn gì nữa không? Còn. Vẫn còn. Vẫn còn những gì không bao giờ có thể hết.
Mai Ninh chân thành cám ơn chị Nguyễn Thị Hoàng đã chấp nhận trả lời phỏng vấn này, với những “phóng toả không đắn đo” dù tác phẩm NYCDT chưa được in ra (điều chưa từng có, như lời tác giả); nhất là chị đã cho phép MN được ‘‘chạm đến mối thương tâm’’ không những của một nhà văn mà của một con người, trong nghĩa tròn vẹn nhất.
Caen – Saigòn
(mùa xuân, 2003)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét