Ngày 10 tháng Giêng năm 1998, Mai Thảo rời xa cõi trần. Vĩnh biệt Mai Thảo được yên nghỉ ở Vườn Vĩnh Cửu - Westminster Memorial Park - Little Saigon, Cali, Nguyên Sa đã “Tiễn Bạn” đồng nghiệp với dòng thơ:
“Tiễn nhau nhớ tháng Giêng, mưa
Sông hồng nước động bóng chưa nhập hình
Tiễn anh linh hiển u minh
Cấu vào da thịt thấy mình bỏ đi”.
Thứ Bảy ngày 17 tháng 4 năm 1998, Nguyên Sa không còn nữa, được yên nghỉ cùng nơi chốn với Mai Thảo. Cả hai, cùng thời điểm bước vào con đường văn nghệ, có mối tương quan với nhau và lại ra đi trong bao niềm thương tiếc.
Mai Thảo bước vào cửa ngõ văn chương chữ nghĩa trước Nguyên Sa khoảng thời gian ngắn. Sau hiệp định Genève 1954, di cư vào Sài Gòn, truyện ngắn Đêm Giã Từ Hà Nội được trình làng trên tờ Lửa Việt vào năm 1955 của Hội Sinh Viên Đại Học Hà Nội, tạo thế đứng cho người cầm bút.
Đầu năm 1956, từ Paris trở về Sài Gòn, Nguyên Sa khởi đầu góp mặt trong dòng sinh hoạt văn nghệ với bài thơ Nga, sáng tác vào Giáng Sinh 1954 ở Solden, trình làng trên tờ Người Việt đã đáp ứng luồng gió mới trong thi ca.
Thanh Tâm Tuyền đã viết những lời chào mừng Nguyên Sa trên trang báo văn nghệ, trong sự mong ước, trong bước khởi đầu của thi phái tự do, có bạn đồng hành với dòng thơ rất tuyệt. Sau bài Nga, bài Tự Do trên Sáng Tạo số 2 tháng 11-56, Tiễn Biệt trên Sáng Tạo số 4 tháng 1-57... từ đó, dòng thơ Nguyên Sa dần dà xuất hiện và được giới trẻ xem như thông điệp tình yêu, truyền đạt cho nhau.
Mùa Thu năm 1956, được sự tài trợ của Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Mai Thảo đảm nhận tờ Sáng Tạo, quy tụ nhiều cây bút của tờ Lửa Việt, Người Việt đình bản, tên tuổi Nguyên Sa đã xuất hiện đều đặn về tiểu luận văn học, triết học và thi ca. Sau 3 thập niên, trong tác phẩm Chân Dung (Văn Khoa 9-1985), Mai Thảo viết về kỷ niệm, dấu tích với 15 nhà thơ, nhà văn, trong đó có Nguyên Sa:
"... Bấy giờ là 1955-1956, Nguyên Sa mới chia tay với tả ngạn sông Seine và Đại học Sorbonne từ Pháp trở về... Nguyên Sa lập tức đi giầy mặc áo ra sân chơi văn chương... Đó là bài thơ Nga với tiểu đề “thay cho thiệp báo hỷ”, cũng là bài thơ đầu tiên Nguyên Sa làm từ Paris mang về và trao cho chúng tôi. Báo hỷ thật. Báo hỷ không chỉ về sắp sống chung hòa bình với một vị hôn thê mà thơ ngộ nghĩnh tả lúc như “một con chó ốm” lúc như “một con mèo ngủ”. Mà còn báo hỷ cho thơ. Rằng thơ vừa có tin vui. Rằng thơ Việt Nam có một vì sao mới... Nguyên Sa hồi hương đã đi ngay vào thơ trên lối vào rực rỡ sinh động nhất của thơ lúc bấy giờ. Điểm nầy tôi viết như nhận định một sự thật về thơ Nguyên Sa thời kỳ khởi đầu, cái vị trí tiền phong của tiếng thơ Nguyên Sa mới về nước và trong thập niên 50, tuyệt đối không vì cảm tình hoặc xô đẩy của ngòi bút... Thành ra mấy chục năm rồi, cái anh chàng lệu bệu tròn hoay về từ Paris và ra sân với chúng tôi ngày nào đã là tay đua đường trường ngoại hạng. Đã là một Nguyên Sa marathon”.
Mai Thảo, nhà văn có nhiều hệ lụy tình cảm và cuộc sống nổi trôi trong thế giới đèn mầu. Nguyên Sa không ngụp lặn trong thế giới đèn mầu, sống trong phong cách nhà giáo, làm thơ, viết văn, viết báo...
Nguyên Sa vẫn giữ phong cách đạo mạo của nhà giáo như thuở nào. Khi đổi đời, tị nạn tại Paris, Pháp, là thành viên trong Văn Bút Việt Nam, Nguyên Sa cùng Minh Đức Hoài Trinh, Trần Thanh Hiệp và anh em cầm bút xúc tiến việc hình thành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Sang định cư tại Cali, Hoa Kỳ, Nguyên Sa thực hiện tạp chí Đời, sau chuyển sang tuần báo khổ standard, Phụ Nữ Việt Nam và bước vào thế giới âm nhạc, nhà sản xuất băng nhạc, video với Trung Tâm băng nhạc “Đời”. Thế nhưng, khi hạt cát trở về với cát bụi, hạt cát đã dệt thành những dòng thơ trác tuyệt, nhập vào cung bậc, lơ lững, óng ánh giữa chốn hồng trần.
****************************
Trần Bích Lan sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội. Năm 1949 được gia đình gửi sang Pháp du học. Năm 1953 theo học Triết Học ở Đại học Sorbonne. Lập gia đình năm 1955 với cô Trịnh Thúy Nga ở Paris, đầu năm 1956, vợ chồng trở về Sài Gòn.
Theo nhà giáo Lưu Trung Khảo, em rễ, Trần Bích Lan chọn “Bút hiệu Nguyên Sa, ông sử dụng từ thời ở Pháp và theo lời ông thì bút hiệu đó không có gì sâu sắc cả. Thành thực, lúc nào tôi cũng cho tôi là số không, tôi không lớn nên tôi tự cho mình vốn dễ chỉ là hạt cát”.
Nguyên Sa dạy Triết cho nhiều trường Trung học & Đại học Văn Khoa ở Sài Gòn. Xây dựng trường Văn Học trên đường Phan Thanh Giản ở Sài Gòn. Năm 1966 nhập ngũ Khóa 24 SQTB/Thủ Đức, phục vụ tại Trường Quốc Gia Nghĩa Tử từ năm 1967 đến tháng 4-1975.
Bài thơ đầu đời “Nga” xuất hiện trên tờ Lửa Việt, sau đó Nguyên Sa cộng tác với tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo. Năm 1960, chủ trương tạp chí Hiện Đại. Thuở đó, có 3 tờ được trợ cấp của Phủ Tổng thống, tờ Sáng Tạo của Mai Thảo, tờ Thế Kỷ Hai Mươi của Nguyễn Khắc Hoạch và tờ Hiện Đại do Nguyên Sa chủ trương, Chủ bút: Thanh Nam và Tổng thư ký: Thái Thủy. Hiện Đại sống được 9 số từ tháng 4-60 đến 12-60. Nguyên Sa tiếp tục xuất hiện trên nhiều báo ở Sài Gòn và cả tờ Đất Nước phát xuất từ Đại học Huế với nhóm Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân do Thành Hiện Đại đảm nhận phân phối. Năm 1974, ra đời tạp chí Nhà Văn... Nguyên Sa sáng tác trên nhiều lãnh vực, ngoài thơ, văn còn biên khảo về triết học & văn học, giáo khoa, nhận định... Mỗi lãnh vực chỉ có vài tác phẩm nhưng thể hiện được sự sâu sắc, sinh động, mới lạ, giá trị. Trần Bích Lan lấy nhiều bút hiệu, trong đó ngòi bút phiếm luận với tên Hư Trúc trên tờ Sống xuất thủ nhiều tuyệt chiêu sắc sảo, độc đáo mới lạ thoáng hiện giữa chiêu thức chính giáo Thiếu Lâm Tự và tà giáo Tiêu Dao.
Tên tuổi nhà thơ gắn liền với thi phẩm Thơ Nguyên Sa, xuất bản cuối năm 1957 tại Sài Gòn, tái bản gần 20 lần. Năm 1987, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội ấn hành tập thơ nầy cùng với nhiều tập thơ thời tiền chiến.
Trải qua ba thập niên, Thơ Nguyên Sa, tập hai, sáng tác trong khoảng thời gian 1982 đến 1988 và số bài thơ ở thập niên 60-70, ấn hành tại Cali, nhà xuất bản Đời, tháng 8, 1988. Thơ Nguyên Sa, tập ba, sáng tác trong khoảng thời gian 1988 đến 1995 (tháng 8, 1988 là thời điểm Nguyên Sa bị giải phẫu ung thư cổ), ấn hành tại Cali, nhà xuất bản Đời, tháng 7, 1995. Trong 3 tập thơ của Nguyên Sa, tập hai & ba, hình như ít ai biết đề cập đến dòng thơ Nguyên Sa. Trong 55 bài thơ ở tập hai, còn vang vọng bài Tám Phố Sài Gòn; trong 42 bài thơ ở tập ba, có lẽ bài Phân Thân với thể lục bát còn gợi nhớ trong ngôn ngữ thi ca. Thơ Nguyên Sa, tập bốn, xuất bản sau ngày nhà thơ qua đời.
Giữa thập niên 1950, ở kinh thành ánh sáng Paris, Nguyên Sa mở cánh cửa vào nền thơ mới, thơ tự do dung dị từ ngôn ngữ lẫn âm điệu, ý thơ rất trữ tình, lãng mạn trong lứa tuổi yêu đương đầy mộng mơ của thời gian đèn sách. Hình ảnh thần nữ ngự trị thi ca theo thần thoại của một thời xa xưa không còn chi phối tâm hồn nhà thơ trẻ ở giảng đường Sorbonne. Nguyên Sa mở lối vào ngôn ngữ thi ca bằng ngôn ngữ trẻ trung, mới, giản dị. Thể tỷ hứng, cách liên tưởng, so sánh của Nguyên Sa, qua bao thập niên, chỉ có ở Nguyên Sa. Hình ảnh “Nga” trong thơ từ ngày còn thuở sinh viên trở thành người tình, người bạn đời đi bên cạnh nhà thơ suốt cả chặng đường dài, mang cả luồng gió lẫn phong ba, tạo nguồn sinh khí trong ngôn ngữ thi ca, để lại dấu ấn trong văn học Việt Nam:
“Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển!...
...Không ai cấm được anh làm cả bài thơ
Với một chữ N
Với một chữ G
Và với một chữ A...”
Thơ Nguyên Sa tập một, gồm 40 bài thơ sáng tác vào giữa thập niên 50 ở Pháp và những bài thơ khi trở về nước. Thi phẩm xuất hiện, được đón nhận như món quà trân quý cho thời kỳ chuyển hướng trong thi ca. Ngoài ra, hồn thơ Nguyên Sa xâm nhập vào cửa sổ, sân trường, cặp sách, trang vở học trò; là nỗi niềm, tâm sự, là nhịp cầu nối kết thương yêu, là lời bầy tỏ chất chứa niềm khát khao, ước vọng của trái tim đang mong mõi về hình ảnh muốn thổ lộ tình cảm như bài Cần Thiết:
“Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau nước mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa...
...Không có anh nhỡ một mai em khóc
Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi
Tóc sẽ dài thêm mái tóc buồn thơ
Không có anh thì ai ve vuốt.
Không có anh lấy ai cười trong mắt
Ai ngồi nghe em nói chuyện thu phong
Ai cầm tay mà dắt mùa xuân
Nghe đường máu run từng cành lộc biếc.
Không có anh nhỡ ngày mai em chết
Thượng đế hỏi anh sao tóc em buồn
Sao tay gầy, sao đôi mắt héo hon
Anh sẽ phải cúi đầu đi về địa ngục...”
Bài thơ Cần Thiết, nhạc sĩ Anh Bằng dựa vào ý thơ viết thành ca khúc Nếu Vắng Anh. Vào giữa thập niên 60, trong không khí chiến tranh, Anh Bằng đem hình ảnh người chiến binh hòa nhập vào trái tim “em gái hậu phương” làm đẹp hình ảnh cho muôn nghìn mối tình trong thuở chiến chinh:
“Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi trong chiều lộng gió - Nếu vắng anh, ai đợi chờ em khi sương mờ nẻo phố - Nếu vắng anh, ai đón em khi tan trường về, kề bóng em ven sông chiều chiều, gọi tên người yêu...
... Có những đêm, âm thầm nghe tin vang xa ngoài tiền tuyến - Nhớ đến anh oai hùng xông pha gian nguy vòng chinh chiến - Phút luyến thương, em chắp hai tay lên nguyện cầu - Mộng ước quê hương thôi hận sầu, ta sớm gần nhau...”
Ý thơ Nguyên Sa, dòng nhạc Anh Bằng, tiếng hát Xuân Thu đủ làm rướm máu trái tim, đủ ru hồn chết lặng với yêu thương. Giữa chốn hồng trần, có được hình ảnh, mối tình, tuyệt vời dễ thương như vậy, dù trong khoảnh khắc rồi tan biến trong hư vô cũng mãn nguyện. Có dâng hiến, khổ đau, đọa đày bởi trái tim, ngụp lặn trong nòi tình mới thấm thía từng cung bậc, ý thơ như rượu nồng rót vào đầu lưỡi tử kẻ tình si.
Sau gần bốn thập niên, ở hải ngoại Hoàng Thanh Tâm sáng tác ca khúc Cần Thiết theo dòng thơ Nguyên Sa:
“Không có anh lấy ai đưa em đi học
Ai viết thư để em mang vào lớp
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai dưa em đi chơi trong chiều mưa...
... Không có anh...
Anh phải cúi đầu đi vào địa ngục”.
Nếu cung bậc của Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Từ Công Phụng ru vào hồn người, tỏ bầy với tha nhân dòng thơ của Cung Trầm Tưởng, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên... thì Ngô Thụy Miên lại mang niềm rung cảm dạt dào đưa dòng thơ Nguyên Sa vào vườn hoa âm nhạc.
Bài thơ Tuổi Mười Ba:
“Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng?
Mưa tôi chả về bong bóng vỡ đầy tay
Trời nắng ngọt ngào...tôi ở lại đây
Như một buổi hiên nhà nàng dịu nắng...
Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám?
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn ngoan nhé, đừng ngờ
Tôi phải dỗ như là... tôi đã nhớn...
...Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi pha mực cho vừa màu áo tím...
...Rồi trách móc: trời không gần cho tay với
Và cả nàng hư quá, sao mà kiêu
Nên đến trăm lần: nhất định mình chưa yêu
Hôm nay nữa... nhưng lòng mình sao lạ quá”.
Ngô Thụy Miên đã chọn 16 câu thơ trong bài thơ dài 44 câu để viết thành ca khúc Tuổi Mười Ba với 32 trường canh. Và hình ảnh “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh anh mến lá sân trường” trở thành hình ảnh rất thân quen cho lứa tuổi con tim biết rung động đến những lời tán tỉnh như mượn dòng lá thắm xe duyên.
Nguyên Sa mang kinh đô ánh sáng Paris với hình ảnh người tình tạo thành dòng thơ tuyệt vời, rất nên thơ, trữ tình, mộng ảo, lãng mạn trong sương khuya, dòng sông Seine thơ mộng mang bóng dáng tình nhân.
Paris Có Gì Lạ Không Em?
“Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim...
...Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đáu mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay...
...Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai là lá sen?”
Ngô Thụy Miên sở trường về nhịp 2/4 & 4/4, tuy nhiên ca khúc Paris Có Gì Lạ Không Em với nhịp 3/4 tạo nét duyên dáng, hay, dễ thương, vừa thôi thúc vừa khoan thai, được giới thưởng ngoạn âm nhạc đón nhận trong suốt nhiều thập niên qua.
Từ Paris về Sài Gòn, Nguyên Sa mang theo tình yêu nồng cháy mà hình ảnh dấu yêu được bắt gặp khi quê hương bị ngăn cách, bị chia lìa làm xoa dịu trái tim. Với màu áo, mái tóc của nơi chốn đã bị ngập chìm trong bóng tối được khơi dậy như ân tình của tình cảm. Trong những tháng ngày di cư với bao nỗi buồn, đau thương khi lạc bước thì Áo Lụa Hà Đông làm xoa dịu tâm hồn:
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng...
...Em ở đâu hởi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng”.
Ngô Thụy Miên chọn 16 câu thơ trong 28 dòng ở bài thơ, và nhạc phẩm Áo Lụa Hà Đông rất phổ thông làm sống lại hình ảnh áo lụa thướt tha, dịu dàng bên cạnh hình ảnh sư tử bị gán ghép cho bóng hồng ở địa danh Hà Đông đã đi vào văn chương.
Ở thập niên 50, 60 thơ Nguyên Sa là tiếng lòng được chép tay cho nhau trong tuổi học trò, thập niên 60, 70 Ngô Thụy Miên đã chọn ba bài thơ tình hay nhất trong thi tập của Nguyên Sa để phổ thành ca khúc, giữ nguyên được ý thơ, dòng thơ. Và, duy nhất, mối giao cảm giữa nhạc sĩ được tạo dựng, nối kết từ nguồn thơ thi nhân. Có lẽ, cảm nhận được điều đó, không còn nhạc sĩ nào khác phổ thơ Nguyên Sa, trong đó có bằng hữu gần gủi với nhau qua nhiều thập kỷ.
Năm 1974, Ngô Thụy Miên ra đời băng nhạc Tình Khúc Ngô Thụy Miên có 3 nhạc phẩm Áo Lụa Hà Đông, Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi Mười Ba.
Thời qua trôi qua, biến thiên cuộc đời, từ phương trời xa ở miền nam bán cầu, Hoàng Thanh Tâm nối kết âm hưởng của Ngô Thụy Miên chọn 12 trong số 28 câu thơ trong bài Tháng Sáu Trời Mưa của Nguyên Sa:
“Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt
Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong tỏa đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận...
...Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng tiếc mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu”
Hoàng Thanh Tâm viết thêm 4 câu cho ca khúc được trọn vẹn, và giữ được chất tình nồng nàn, tha thiết, say đắm, đam mê:
“Mình dựa vào nhau cho thuyền ghé bến
Sưởi ấm đời nhau bằng những môi hôn
Mình cầm tay nhau nghe tình dâng sóng vỗ
Hãy biến cuộc đời bằng những tối tân hôn”.
Bài thơ Tháng Sáu Trời Mưa của Nguyên Sa trên Sáng Tạo số 31 tháng 9-59 mang nỗi nhớ thương trong tình đôi lứa mà ở thập niên 1940 Vũ Hoàng Chương bày tỏ trong bài Mười Hai Tháng Sáu. Bài thơ nầy được Ngô Thụy Miên phổ nhạc "Tình Khúc Tháng Sáu" vào năm 1970 nhưng đến năm 1984 mới xuất hiện trong Ca khúc Tháng Sáu Trời Mưa.
Ca khúc Lúc Chết do Trần Duy Đức phổ thơ Nguyên Sa như linh cảm hình ảnh cuối cùng của cuộc đời với dòng tâm sự:
“Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
Sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
Mười ngón tay sờ soạn giữa hư không
Và đôi mắt đã trũng sâu buốn ảo ảnh...”
Dòng thơ Nguyên Sa được đi vào cung bậc của phái nữ, ca khúc "Tương Tư" do Mộng Lan phổ nhạc qua bài thơ Tương Tư và ca khúc Hoa Lan Giữa Tóc Thề phổ nhạc trong bài thơ Hải Âm. Hai ca khúc nầy do Trọng Nghĩa - Mộng Lan thực hiện qua CD Hoa Lan Giữa Tóc Thề năm 1996.
Trong 4 thi tập, hàng trăm bài thơ của Nguyên Sa đã cống hiến cho đời, đóng góp cho nền thi ca Việt Nam, trong đó ở tập I với những bài thờ tình trác tuyệt được chọn lọc và tạo dựng thành ca khúc dễ thương nhất được nghe với dòng thơ diễm lệ, chất ngất yêu thương.
Trong 40 năm cầm bút, tác phẩm Nguyên Sa được viết dưới nhiều thể loại. Truyện dài: Vài Ngày Làm Việc Ở Chung Sự Vụ, Giấc Mơ 1,2,3. Truyện ngắn: Gõ Đầu Trẻ, Mây Bay Đi. Biên khảo: Descartes Nhìn Từ Phương Đông, Một Mình Một Ngựa, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, Hai Mươi Khuôn Mặt Nghệ Sĩ Việt Nam Ở Hải Ngoại. Giáo khoa: Luận Lý Học, Tâm Lý Học. Bút ký, Hồi ký: Đông Du Ký, Nguyên Sa...
Khi xa cõi trần, Nguyên Sa để lại những dòng thơ trữ tình, lãng mạn được viết thành ca khúc, tiếng nói yêu thương đã một thời đi vào lớp học, mãi mãi là tiếng tơ lòng ngự trị ở trần gian.
Vương Trùng Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét