Như nhiều tác phẩm được viết lên từ những mối tình (có thể là những mối tình câm, hay chỉ có khi là 1 nàng thơ trong viễn tượng) với 1 bóng hình nào đó, như TCS với Diễm trong Diễm Xưa, Anh Bằng với Thụy trong Khúc Thụy Du (của Du Tử Lê), Phạm Thiên Thư với HoàngThị Ngọ trong Ngày xưa Hoàng Thị, Hoàng Thi Thơ với Thi trong Người Trinh Nữ Tên Thi, Nguyên Sa với Nga trong bài thơ cùng tên.... Thà Như Giot Mưa (thơ Ng.Tất Nhiên, nhạc Phạm Duy) cũng cùng 1 "tông" màu tha thiết ấy và hình ảnh người tình luôn là.... nỗi ám ảnh, nỗi say mê bất tận của các tác giả này...Những người tình, đã đến, đã "ngồi xuống đây", đã là 1 phần đời cúa các tác giả, nhưng mãi là "cuộc đời" của tất cả những độc giả, những thính giả sau này.
Tuy thế, Thà như giọt mưa của Nguyễn Tất Nhiên (được Phạm Duy phổ nhạc) là 1 tác phẩm đau đớn và giằng xé nhất. Nếu như những Thụy, những Diễm, những Ngọ...được nhắc đến chỉ như là 1 quá khứ, 1 kỉ niệm đẹp, 1 trang đời được lật lại, thì Duyên, trong thơ Nguyễn Tất Nhiên và qua nét nhạc tài hoa của Phạm Duy, là 1 "vết mực " không thể nào "xóa bỏ không hay" được, hình ảnh ấy, cứ trở đi trở lại, cứ khiến nhà thơ như đang trong một cơn "vật vã trôi", đến nổi những tuyệt tác của ông được mọi người gắn cho là một mối tình điên.
Còn cuộc tình nào đẹp hơn..những cuộc tình được viết vào thơ???
Từ thưở anh chàng Nam Kì Nguyễn Tất Nhiên yêu "Cô Bắc kỳ nho nhỏ"
"Đôi mắt tròn, đen, như búp bê
Cô đã nhìn anh rất ... Bắc Kỳ
Anh vái trời cho cô dễ dạy
Để anh đừng uổng mớ tình si"
cho đến khi phát giác nhửng chua cay trong cơn say ái tình ấy
"Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng
Người thì không bắt bóng được bao giờ
Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học
Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng."
(Bởi yêu em sầu khổ dịu dàng)
cho đến khi tan giấc mộng lành. khi...
"Tình mới lớn phải không em rất mỏng ?
Cách tập tành nào cũng dễ hư hao
Thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
Và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ
Khi mỏi mòn nghe đời mình trắc trở
Hơn lúc nào tôi quá đỗi thương tôi ! "
...rồi vì yêu quá, nên
"Ta muốn riêng ta - người bất hạnh
Để em còn mím lệ chảy ngang tôi
Tay run run vuốt mặt kẻ qua đời
Và sau đó ... em nên cười ta dại dột !"
Cho đến khi những yêu thương cuồng dại, muốn sống hoài, muốn sống mãi với người tình của mình, muốn biến mình thành mưa, thành những giọt nước mắt từ trời, cứ thế rơi tự nhiên, rơi hoài hoài, rơi suốt kiếp, rơi ...đễ "người tên Duyên" phải "đau khổ muôn niên"... Còn đắm say, mới còn thù hận...Còn chất ngất, mới còn có sự hờn căm ấy...
Cái lạ và độc đáo của thơ Nguyễn Tất Nhiên là ở đó, có thể, ông không nghĩ là mình đang làm thơ, ông chỉ viết những gì mình nghĩ, và những bài-thơ-suy-nghĩ ấy, đầy chất đời, bởi vậy, nó đã lại với chúng ta...đến giờ này, cũng là 1 điều dễ hiểu!
--------------------
Dù biết rằng tình yêu không thể nào lý giải, không thể nào gượng ép. Nếu cô Duyên, xin tạm gọi là cô Duyên, trong một dịp tình cờ nào đó đọc được những giòng thơ nức nở này. Lòng cô Duyên có giao động cho mối tình khờ dại??!! Không hiểu cô Duyên khi xưa có đáp lại một chút ân tình gì cũa nhà thơ hay không , hay chỉ là tình một chiều?? Nếu chỉ là tình môt chiều thì quả thật nhà thơ yêu đên điên dại. Yêu đến báo trước dấu hiệu sẽ tự tử vì tình.
Nếu cô Duyên có "duyên" tình cờ đọc được nổi lòng cũa nhà thơ, không hiểu cô, bây giờ chắc cũng đã "tóc đã bạc màu" có chợt nhớ đến quãng đời học sinh thơ mộng, có anh học trò đứng đợi nơi sân trường, với lòng thổn thức??!!.
Cô Duyên có thể bây giờ đang đếm lại những mảnh tình?? Có chợt nhớ đến người xưa và lòng hối hận??.!!Chính cô Duyên đã giết chết một tâm hồn.. Nguyễn Tất Nhiên yêu cô Duyên đến điên dại. Nhưng (có nên không??), chúng ta có lẽ cũng cần cảm ơn cô, vì đã đến với cuộc đời NTT, đã gieo vào đời ông 1 mối tình đau, để những bài thơ ấy, thành những tác phẩm độc nhất vô nhị của nền thi ca VN....Và có lẽ, trước đó, bây giờ, và sau này, hể có ai vì tình mà quá đau đớn, vì tình mà quá chua chát, thì dù người yêu, có tên gì, thì cũng sẽ hát hoài, hát mãi "để người tên Duyên, đau khổ muôn niên"....
!!!
huyvespa@gmail.com
Đọc thêm : NGUYỄN TẤT NHIÊN - THI SI ĐIÊN SI TÌNH LÃNG MẠN


http://www.megaupload.com/?d=CIS2XI6G

01-Tình Đầu Trôi Đi Không Trở Lại (Thơ Nguyễn Tất Nhiên, Nhạc Hoàng Thi) - Hoàng Thi
02-Khúc Buồn Tình_Thà Là Giọt Mưa (Thơ Nguyễn Tất Nhiên, Nhạc Hoàng Thi) - Khánh Ly
03-Như Màu Nắng Sân Trường (Nguyễn Tất Nhiên, Đào Dung) - Phương Thảo
04-Tâm Hồn Anh Có Một Giòng Sông (Thơ Nguyễn Tất Nhiên, Nhạc Hoàng Thi) - Hoàng Thi
05-Vì Tôi Là Linh Mục (Thơ Nguyễn Tất Nhiên, Nhạc Nguyễn Đức Quang) - Thanh Hà
06-Con Gái Bắc (Thơ Nguyễn Tất Nhiên, Nhạc Hoàng Thi) - Hoàng Thi
07-Sài Gòn Đường Nguyễn Du (Thơ và Nhạc Nguyễn Tất Nhiên) - Phương Thảo
08-Sông Chiều Áo Trắng (Thơ và Nhạc Nguyễn Tất Nhiên) - Thái Châu
09-Trúc Đào (Thơ Nguyễn Tất Nhiên, Nhạc Anh Bằng) - Thúy Hằng
10-Chiều Trên Đường Hồng Thập Tự (Thơ và Nhạc Nguyễn Tất Nhiên) - Hoàng Thi
11-Lời Của Hoàng Thi - Phạm Long & Diamond Bích Ngọc đọc
http://www.box.net/public/5npbcyaaje









http://www.megaupload.com/?d=2TYEBFT0
http://www.mediafire.com/?uguizonpj1d









à thông, bà phán quí phái. Hình như bà Túy Hoa rất ít đóng vai... nghèo thì phải. Vai nào của bà cũng thấy vàng vòng sáng lóa, áo quần bảnh bao. Anh Lân thì dĩ nhiên đóng vai ông chồng hiền lành quá, đến đỗi không bảo vệ nổi những điều mà ông cho là đúng, hay những giá trị ông theo đuổi. Ðặc tính chung các vai của Túy Hoa, là lúc nào người ta cũng giao cho bà những vai có tính tình khó khăn, xét nét từng chút một lỗi phải của dâu rể hay con cái trong gia đình. Vở kịch cuối cùng bao giờ cũng cho bà mệnh phụ Túy Hoa “hồi chánh” trở thành một con người vô cùng nhân hậu, sau khi đã... tàn phá thảm thê những gì không vừa ý. Thí dụ như trong một dĩa cải lương, đôi khi Túy Hoa cũng hát cổ nhạc chút đỉnh, cùng với Hữu Phước, Túy Phượng và Út Bạch Lan. Túy Hoa đóng vai một bà mẹ khó khăn, ham chuộng môn đăng hộ đối, cứ buộc người con là Hữu Phước phải bỏ người yêu Út Bạch Lan đã có thai để lấy cô con gái nhà giàu đỏm đáng Túy Phượng. Túy Phượng về làm dâu quậy quá xá, công dung ngôn hạnh và tam tùng tứ đức là một con số không to như cái... thúng. Bà già chồng chịu hổng thấu, trả cô ta về nhà cha mẹ rồi hối hả cùng con trai đáp xe lửa đi rước bà dâu lớn về.
những vai hài thành công nhất của La Thoại Tân, khi ông xuất hiện trong cuốn phim vui nhộn Tứ Quái Sài Gòn (1965). Vì là nghệ sĩ đa tài nên trong những năm cuối thập niên 1980 và trong suốt thập niên 1990 La Thoại Tân còn nổi danh là một trong những MC hay nhất, tức người điều khiển chương trình ca nhạc.
mông của Thẩm Thúy Hằng, cô kia có cái cằm chẻ xinh xắn như cái cằm của Thẩm Thúy Hằng, hay nàng nọ có đôi môi hình trái tim giống như của Thẩm Thúy Hằng, v.v.. và v.v.. Sắc đẹp kiều diễm của bà luôn là đề tài ca ngợi của giới mày râu. Tuy nhiên về tài nghệ diễn xuất thì nàng phải chịu nhường Kim Cương hay Túy Hồng.
Kỳ 3
Thanh Tú cũng được nhớ đến nhiều qua hình ảnh của chàng thư sinh Ðiệp vì nghịch cảnh oái ăm mà cắn răng chia lìa Lan để về làm rể một ông quan huyện. Buổi chia tay từ giã người yêu về thành phố ứng thí lập công danh, Ðiệp thề thốt giữ lòng chung thủy với Lan. Ðiệp lên trọ học ở nhà người quan huyện, là chỗ quen biết xưa với cha chàng. Thật không may cho Ðiệp, cô con gái cưng của quan huyện đã lỡ mang bầu với một tên khốn kiếp nào đó, mà hắn đã cỡi ngựa chuối dông mất. Quan huyện đành phải phục rượu Ðiệp đến... xỉn không còn biết trời đất gì, rồi khênh chàng thảy vào giường con gái. Khi Ðiệp tỉnh rượu, chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra bên cạnh một thân thể con gái trần truồng, thì ông bà huyện đã la làng lên nói chàng “công xúc tu sĩ” trinh tiết con gái. Ðể khỏi đi tù, Ðiệp đành nuốt nước mắt nhận chịu làm chồng cô gái và làm cha cái bào thai vô thừa nhận. Lan buồn rầu xuống tóc đi tu. Cái cảnh não lòng và hay nhất trong toàn bộ câu chuyện dù trong phim ảnh, trên sân khấu cải lương hay thoại kịch, là lúc Ðiệp đến thăm Lan trước cổng chùa. Lan đã cắt đứt giây chuông, để người yêu cũ không còn... giựt chuông được nữa. Ðiệp buồn bã ra đi, cũng là lúc Lan nằm bệnh, rồi nàng lìa bỏ cõi đời đầy khổ đau, chấm dứt một chuyện tình mà mỗi khi được trình diễn lại, dù ở không gian hay thời gian nào, đều lấy đi rất nhiều nước mắt của khán giả.
Lam Phương là một trong vài nhạc sĩ giàu có nhờ những tác phẩm của mình. Ðiều đặc biệt ở nhạc Lam Phương là, dù nó ở dạng nhạc thời trang đơn giản, nhạc đồng quê, nhạc lính hay nhạc thính phòng, hầu như bài nào cũng được đón nhận nồng nhiệt. Người ta kể rằng, lúc còn tuổi thanh niên, hai bài hát lính Chiều Hành Quân và Tình Anh Lính Chiến đã giúp cho Lam Phương mua được một chiếc Lambretta hai bánh mới toanh. Thuở thập niên 1960, mua và cỡi trên một chiếc Lambretta đã là hách xì xằng lắm rồi.
Khi chuyển sang thoại kịch, Kiều Mai Lý bỗng cảm thấy mình có năng khiếu diễn hài kịch hơn bi kịch. Nàng đã có dịp thể hiện tài năng trong lĩnh vực mới với những danh hài rất được ưa thích trong thập niên 1970 như Thanh Việt, Văn Chung. Nhiều năm gần đây, nền ca kịch cải lương trong nước đã thui chột dần, nghệ sĩ cải lương không còn sân khấu diễn nữa, đa số phải chuyển nghề để mưu sinh. Nghệ sĩ trẻ thì tập hát tân nhạc, nghệ sĩ thuộc lớp đàn anh đàn chị buộc phải tìm đến với những nhóm hài trình diễn trên những sân khấu nhỏ, hội trường, phòng trà ca nhạc. Danh hài Bảo Quốc chú ý đến tài năng của Kiều Mai Lý, anh mời nàng tham gia nhóm hài của anh. Ðược một thời gian, Kiều Mai Lý tách riêng, rồi tự thành lập Nhóm Hài Kiều Mai Lý, với hai diễn viên trụ cột là Kiều Mai Lý và Hồng Ðào, con gái của nàng. Việc Hồng Ðào có mặt bên cạnh mẹ trên sân khấu hài hước là một việc tình cờ, từ chuyện một diễn viên trong nhóm vắng mặt, Hồng Ðào tình nguyện thay thế. Buổi diễn rất thành công, Kiều Mai Lý lấy luôn con gái vào nhóm kịch. Giờ đây Hồng Ðào đã trở thành một kịch sĩ chuyên nghiệp (không phải Hồng Ðào và Quang Minh ở hải ngoại, sẽ nói đến sau). Một trong số các ở diễn cải lương của Kiều Mai Lý được khán giả nhớ nhiều, có lẽ là vai Thị Cua trong tuồng Ngao Sò Ốc Hến của soạn giả Năm Châu.
Ðấng phu quân của Kim Ngọc là nghệ sĩ Hoàng Long, vận nước tang thương, anh vượt thoát được đến miền đất hứa Hoa Kỳ. Vẫn nặng nợ với sân khấu và nền ca kịch cải lương, Hoàng Long là một trong những nghệ sĩ hải ngoại cố gắng vực dậy và phát triển nền nghệ thuật Việt Nam. Anh tham gia nhiều chương trình cải lương, thoại kịch, xuất hiện trong những video nhạc tạp kỹ của chương trình Hoàng Thi Thơ. Từng một thời là kép đẹp và kép mùi trước năm 1975, cùng hiền thê Kim Ngọc, Hoàng Long rất được khán giả yêu mến. Nhưng anh lại không có cái duyên làm nghệ sĩ hài hước như Kim Ngọc. Hoàng Long đã tìm thấy một cái nghề mới thật rất thích hợp với cá tính nghệ sĩ của anh, đó là nghề lồng tiếng phim bộ Hongkong và Ðài Loan. Không còn nhiều dịp trình diễn tài năng trên sân khấu nữa thì Hoàng Long đã có thể biểu hiện cảm xúc của anh qua lớp mặt nạ của những tài tử phim ảnh. Ngoài giọng nam tốt, Hoàng Long còn luôn được giao phó lồng tiếng cho những vai... già. Nếu không được biết trước, thì khán giả phim bộ sẽ không thể ngờ được thanh âm của những ông già đó chính là từ Hoàng Long.
Giới hâm mộ cải lương đều biết tiếng hai tài danh xuất sắc là nghệ sĩ Ba Vân và Tám Vân, cũng là hai huynh đệ ruột thịt. Nghệ sĩ Ba Vân chỉ sinh hoạt bên ngành cải lương và đã dạy dỗ dẫn dắt không biết bao nhiêu là tài năng cho nền kịch nghệ sân khấu Việt Nam. Hình như bất cứ nghệ sĩ nào trong thời gian ông còn sinh tiền đều trân trọng gọi ông là thầy. Trong lãnh vực cải lương, chỉ có hai nghệ sĩ được người đời xưng tặng Quái Kiệt là Ba Vân và Bảy Xê. Nghệ sĩ Tám Vân lại càng xông xáo hơn, ông hoạt động cả bên ngành thoại kịch. Hình ảnh mà ông để lại cho hậu thế là Thầy Ký mặc bộ bà ba lụa trắng ngồi bên chiếc bàn uống trà, phì phèo điếu thuốc và dạy dỗ con cháu trong nhà.
Số nghệ sĩ cải lương hoạt động lấn sang ngành thoại kịch có khá nhiều, trong số nghệ sĩ thành công hơn hết có lẽ phải kể đến tên Bảo Quốc. Bảo Quốc vốn là kép đẹp hạng nhì của Ðoàn Cải Lương Thanh Minh - Thanh Nga. Anh có vóc dáng cao ráo với khuôn mặt khá đẹp trai và giọng ca khá truyền cảm, nhưng có quá nhiều tài danh lớn trong đoàn hồi đó là Hữu Phước, Thành Ðược, Thanh Tú, nên anh không có cơ hội tiến lên, mặc dù bà bầu Thơ là thân mẫu của anh. Chỉ duy nhất có một lần, trong tuồng Giữa Chốn Bụi Trần của Nhị Kiều thì phải, Bảo Quốc được giao đóng vai chánh, là một chú tiểu hoàn tục trở về đời sống dân giả. Trong vai trò này, Bảo Quốc đã nhận được nhiều lời khen ngợi của giới phê bình. Về sau, khi nghệ sĩ Văn Chung, vốn là kép mùi, thử nhảy qua diễn những vai hề cải lương và đã rất thành công, Bảo Quốc liền thử theo gương và cũng thành công không kém. Mãi từ đó đến nay, khán giả chỉ biết đến một Bảo Quốc hài. Nếu Văn Chung được yêu thích vì tiếng cười đểu giả rất thích hợp với những vai diễn sàm sỡ kiểu ông Tổng, ông Huyện, thì Bảo Quốc có giọng nói ngọng nghịu và những cái méo miệng khá có duyên, mặc dù một số nhà phê bình cho rằng không sâu sắc nội tâm và hời hợt. Có thể xếp Bảo Quốc vào trường phái hài hước ngoại hình. Lâu lắm, thỉnh thoảng anh mới có dịp xuống một vài câu vọng cổ, nghe vẫn còn ngọt, nhưng nó mỏng manh như cơn gió thoảng chút hương tàn. Bảo Quốc nằm trong một số các diễn viên miền Nam còn lưu ngụ ở Việt Nam, mà đã được ngành văn hóa nghệ thuật vẹm “phong” cho cái chức hàm “nghệ sĩ ưu tú”.
Phi Thoàn có một thân hình ốm tong teo. Giống như những con cò nhảy loanh quanh bên hòn đá, chờ nước cạn ăn tôm ăn cá. Ông phát minh ra loại thời trang mới rất “hot” thời đó là cái quần sọt rách te tua cắt ra từ chiếc quần dài, dài tới đầu gối. Hóa ra Phi Thoàn đã có cái nhìn tiên tri về khuynh hướng thời trang, đi trước thị hiếu của người Mỹ, bởi ngày nay chúng ta vẫn còn thấy loại quần jean cụt rách te tua còn bán trong các cửa hàng thời trang ngoại quốc. Ngoài ra ông còn có giọng cười sàm sỡ không thua gì của Văn Chung, nhưng trông có vẻ trí thức hơn. Phi Thoàn sở trường về độc diễn hài hước trong những chương trình đại nhạc hội, hoặc song tấu hài hước với một bạn diễn khác dù nam hay nữ. Ông kể chuyện vui cũng hào hứng không kém mấy Trần Văn Trạch. Ðiểm đặc biệt ở Phi Thoàn là, lúc nào nụ cười vẫn luôn tươi nở trên khuôn mặt có nét muốn nói đứng đắn cũng được, mà muốn gọi là nham nhở cũng xong. Tiếng cười hệch hạc của Phi Thoàn thường tạo ra những tràng cười tán thưởng của công chúng. Theo chân Thanh Việt, Phi Thoàn đã thử tài năng của mình trên sân khấu cải lương. Một trong những vai hay nhất của ông là Bùi Kiệm thi rớt về nhà trong vở Kiều Nguyệt Nga.
Trong số các danh hài, có lẽ Tùng Lâm là người đa năng đa tài nhất. Khi cần thì ông cũng có thể nhại giọng hay nhại âm thanh, hoặc kể chuyện vui pha âm nhạc giống như Trần Văn Trạch. Chúng ta thường cười nghiêng ngã khi nghe Tùng Lâm pha trò, để quên mất ông còn là một ca sĩ tài ba và là một ông trùm sô đại tài. Tùng Lâm nguyên là một ca sĩ giải nguyên trong một cuộc tuyển lựa ca sĩ. Ông đoạt giải nhất với bài Tiếng Dân Chài của Phạm Ðình Chương. Thật kỳ diệu và ngộ nghĩnh, bởi giọng hát của Tùng Lâm lôi cuốn thôi thúc giục lòng khán giả quá, nên khi đến lúc ông xướng điệp khúc Ới này anh em ơi! Thì khán giả bên dưới đã cùng Ới lên theo vỡ rạp. Chương trình Tạp Lục Tùng Lâm trên Ðài Phát Thanh Sài Gòn mỗi chiều thứ Bảy là một trong những chương trình ăn khách nhất. Ðiểm đặc sắc của Chương Trình Tạp Lục Tùng Lâm là sự bỏ ngỏ tiết mục, đem đến cho thính giả nhiều bất ngờ lý thú. Thí dụ như danh ca Ðức Minh, ca sĩ nổi tiếng nhờ bài hát trữ tình Nghiêng Nón của Trịnh Lâm Ngân, từ chiến trường về ghé thăm chương trình, dĩ nhiên Tùng Lâm chưa được biết trước. Tùng Lâm không bỏ lỡ cơ hội bắt ngay lấy Ðức Minh hát tặng nóng sốt thính giả một bài. Còn nhiều trường hợp một lần ghé thăm như thế của nhiều nghệ sĩ, nên chương trình của Tùng Lâm vẫn luôn là nơi chốn tao ngộ của giới văn nghệ trong một bầu không khí vui nhộn và thân tình. Những ca sĩ xuất thân từ chương trình này như Trang Thanh Lan, Trang Kim Yến đều đã rất nổi tiếng và rất được khán thính giả yêu mến.
Nghệ sĩ Xuân Phát là diễn viên hài rất ít xử dụng ngoại hình nhất. Ông diễn xuất bằng những câu bỏ nhỏ bất ngờ, tưởng vậy mà không phải vậy. Còn nhớ khi nghệ sĩ mới chân ướt chân ráo sang định cư tại Hoa Kỳ và được Ban Kịch Sống Túy Hồng mời cộng tác trong một vở hài kịch, Xuân Phát thủ diễn vai một người Việt Nam chưa nhá nổi nếp sống tương phản Mỹ. Ông chơi luôn bộ pyjama mới ngủ dậy còn bèo nhèo, tà tà chắp tay sau đít dạo mát trên hè phố. Xuân Phát là một trong số những nghệ sĩ hài hước có khả năng kiêm luôn nhạc sĩ và soạn giả trong cả hai lãnh vực tân và cổ nhạc.
Chương trình ca nhạc Trường Sơn của Duy Khánh được phát sóng hàng tuần trên Ðài Quân Ðội vào trưa ngày Thứ Bảy và thường xuyên được phát hình từ Ðài Truyền Hình Sài Gòn Băng Tần 9, rất được quần chúng và chiến sĩ bốn vùng chiến thuật theo dõi thưởng thức. Ca khúc Ði Từ Ðồng Ruộng Bao La được dùng làm nhạc hiệu cho chương trình Trường Sơn là một bản nhạc nửa hùng nửa tình tự dân tộc do chính Duy Khánh sáng tác tuyệt hay, với những câu mở đầu như sau: “Từ Cà Mau ruộng đồng bao la, Năm Căn heo hút muỗi sa từng bầy. Chiều hành quân đi qua rừng chiến khu D, đến mùa Ðồng Tháp đĩa đeo tràn trề...”.
Nhật Trường phụ trách chương trình ca nhạc Tiếng Hát Ðôi Mươi trên cả hai làn sóng Ðài Sài Gòn và Ðài Tiếng Nói Quân Ðội. Ông thường ký tên Trần Thiện Thanh, Anh Chương hay Trần Thiện Thanh Toàn cho những tác phẩm của ông. Báo chí thời ấy đã tặng một biệt danh rất đẹp cho Nhật Trường từ giọng ca ấm áp mượt mà của ông là Giọng Vàng Bao Dung. Thật thế, nghe Nhật Trường hát, khán giả có một cảm giác ấm cúng, được bảo bọc từ những rung động chân thành mà Nhật Trường đã diễn tả bằng chính con tim của mình. Nếu ngày nay có nhiều ca sĩ phản bội với chính giọng hát của mình để trở thành những con vẹt, những cái máy hát vô hồn, thì Nhật Trường là một trong số ca sĩ chân chính luôn gởi đến chúng ta bằng tất cả tấm lòng của ông dành cho quê hương, dân tộc, và trên hết là Những Người Lính ở ngoài chiến trường. Trước khi ông lìa khỏi cõi thế gian đầy nhiễu nhương này, Trần Thiện Thanh còn biên soạn một liên khúc tổng hợp ngợi ca hầu như tất cả quân binh chủng QLVNCH. Nếu Phạm Duy luôn có cái nhìn về cuộc chiến tranh Việt Nam dưới lăng kính ảm đạm và bi thảm, thì Nhật Trường nhìn thấy ở đó bóng dáng những anh hùng hào kiệt, thà chịu phơi thân ngoài chiến trường, hay đành poncho bọc thây, hùng dũng như những cội thông, tùng kiên cường trước mọi cơn giông bão.
Ngoài chương trình ca nhạc, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tức ca sĩ Nhật Trường, còn có một đóng góp quan trọng cho nền kịch nghệ Việt Nam thời chiến, khi ông giới thiệu một hình thái kịch nghệ rất đặc sắc mà ông gọi là phim kịch. Loại phim kịch là dạng thoại kịch dàn dựng trong phòng thu hình, nhưng có lồng thêm nhiều đoạn diễn ngoài ngoại cảnh. Diễn viên ngoài phần diễn xuất còn có những đoạn trình bày những bài hát hay nhất, vì vậy các diễn viên chính thường là các nam nữ ca sĩ tài danh. Hai bộ phim kịch do Nhật Trường viết truyện phim và đạo diễn, mà đã có đóng góp rất lớn vào công tác chiến tranh chính trị là Trên Ðỉnh Mùa Ðông, câu chuyện tình giữa người lính Nhảy Dù và cô sinh viên Sài Gòn; Người Chết Trở Về, câu chuyện tình giữa người lính Biệt Ðộng Quân và cô em gái Ðà Lạt. Trong cả hai cuốn phim kịch này, hai vai chánh đều do Nhật Trường và Thanh Lan ca diễn, với sự có mặt của các nữ ca sĩ Ngọc Minh, Kim Vui, Kim Tuyến, phần hòa âm do nhạc sĩ Y Vân, Trần Thiện Thanh phụ trách. Bộ phim kịch thứ ba, Biển Mù Sương, dàn dựng trong năm 1975, có lẽ viết cho những người lính Cọp Biển Thủy Quân Lục Chiến, nhưng không kịp trình diễn.
Sự lo sợ của cha mẹ Lan có cái lý do chính đáng của nó và đã không mấy chốc mà đã trở thành sự thật. Cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719 năm 1971 đã lấy mất đi của Lan một người chồng, và đứa con trai nhỏ của hai người một người cha. Giặc tràn ngập Căn Cứ Hỏa Lực 31, Ðại Úy Ðương thà chết không chịu đầu hàng, viên đạn cuối cùng trong khẩu Colt 45 không phải để bắn vào giặc mà là tự kết thúc cuộc đời của một con đại bàng từng ngang dọc trên bốn vùng chiến thuật. Một người lính truyền tin thân cận chứng kiến giây phút bi tráng đó đã vượt thoát trở về hậu phương, để từ đó cái tên Nguyễn Văn Ðương quen thuộc với người dân Sài Gòn, và là nỗi cảm xúc để Trần Thiện Thanh sáng tác Anh Không Chết Ðâu Anh. Trong phim kịch, Nhật Trường và Thanh Lan đã thể hiện bài hát này qua bối cảnh hồn ma của Ðương hiện về tái ngộ cùng vợ con, trước khi chàng đi vào cõi vĩnh hằng. Ðây có lẽ là nhạc cảnh hay nhất trong toàn bộ cuốn phim kịch Trên Ðỉnh Mùa Ðông, nó phản ảnh một sự thực não lòng hằng hiện hữu trong lòng mỗi người vợ lính ở hậu phương. Khi cơn ác mộng đến, người tình, người chồng hiện về với một thân thể máu me, thì chắc chắn đó là hiện tượng báo mộng về cái chết thật của người chiến sĩ. Khi Lan thức dậy sau cơn mộng dữ, thì trời ơi, hai sĩ quan Nhảy Dù gõ cửa báo tin nàng đã trở thành góa phụ. Lan thất thểu, đau đớn dẫn con mà nàng cho nó mặc bộ quân phục Dù đi lang thang trên những con đường đầy ắp những kỷ niệm in dấu chân của Ðương và nàng. Sự chia lìa đó tuy bi thương đã đành, nhưng nó có một tác động tâm lý mạnh mẽ vào từng sự quyết tâm cầm chắc cây súng M16 trong tay của mỗi người lính ngoài mặt trận. Bởi nếu không muốn những chia cách, những vành khăn tang đó tái diễn, thì người lính QLVNCH không còn con đường nào khác ngoài việc chiến đấu tận diệt cộng sản đến tên cuối cùng. Cộng sản chết thì tai ương cũng lụi tàn.

